NGHIỆP BÁO
Hòa Thượng Thích Thanh Từ
Hôm nay tôi về đây thăm, nhận thấy Phật tử ở gần vùng này chưa có cơ hội học giáo lý sâu nên đề tài tôi giảng hơi gần với quí vị, đó là đề tài Nghiệp Báo. Từ ngữ của Phật học nói đủ là nhân quả nghiệp báo. Nhân quả nhiều người biết rồi, nói nghiệp báo là thế nào? Phật tử tu ai cũng muốn được an vui và hướng dẫn mọi người chung quanh mình cùng được an vui.
Vậy chữ nghiệp báo có giá trị gì đối với sự tu hành của chúng ta? Thường người ta quen tưởng tượng khi làm tội, lúc sắp chết có quỉ sứ hay ngục tốt tới bắt đi, nếu làm lành có Phật hay Bồ-tát xuống dẫn mình đi. Bởi chưa hiểu rõ lẽ đó nên tưởng tượng không đúng lý thật.
Chữ “nghiệp” đúng ra phải nói là nghiệp lực, tức nghiệp có một sức mạnh lôi kéo thúc đẩy chúng ta tới những nơi do mình tạo nhân rồi sau đó phải nhận quả. Động cơ mạnh mẽ nhất đưa chúng ta đến đường lành hay đường dữ chính là nghiệp. Người đời không biết, cứ nghĩ mình làm lành thì sẽ được bậc nào đó đến đón, làm dữ thì ngục tốt dưới kia lên dẫn đi. Họ không biết rằng lành dữ là nhân do mình tạo, thì nhất định phải có quả để hưởng hoặc để chịu. Thời gian tạo nhân và thời gian thọ quả không cố định, có khi ngay trong hiện đời, có khi qua đời khác. Như đời trước người tạo nhân lành, đời này được hưởng quả lành, đó là khoảng cách xa. Khoảng cách ấy cái gì dẫn chúng ta đến để thọ quả? Là nghiệp lực. Nghiệp có sức mạnh lôi kéo chúng ta đến những nơi mình đã tạo nhân, bây giờ thọ quả, nên còn gọi là nghiệp báo. Báo là đền, là đáp, là trả.
Thế thì nghiệp ra sao, nó từ đâu lại? Có ai biết hình tướng của nghiệp không? Không ai biết hết. Bây giờ tôi dẫn một số thí dụ để quí vị thấy nghiệp dẫn chúng ta đi. Như người chưa biết uống rượu, ban đầu tập uống mỗi ngày một hai ly chẳng hạn, uống lâu thời gian người đó sẽ ghiền rượu. Khi ghiền rồi hôm nào không có rượu, biết cách nhà hai ba cấy số có quán rượu thì nhất định phải đi tới quán rượu uống mới được. Vậy cái gì thúc đẩy người đó đi tìm quán rượu? Đó là nghiệp, nói đủ nghĩa là một thói quen, thói quen lâu dần tạo thành sức mạnh, nó thúc đẩy ta đi theo cái mình đã quen làm. Như hai người cùng dạy học gọi nhau là bạn đồng nghiệp, đồng làm một việc. Làm hoài một việc thì việc làm đó sẽ có sức mạnh thu hút, dẫn mình tới chỗ mình làm. Thí dụ thầy cô giáo dạy học quen rồi, đến lúc nghỉ cảm thấy buồn.
Nghiệp có nghiệp tốt, nghiệp xấu. Gần nhất hiện tại những người khổ sở vì xì ke ma tuý, từ đâu có khổ? Từ tìm nó chơi với nó, khi nhiễm thành ra ghiền, ghiền rồi khổ, không có phải chạy ngược chạy xuôi cho có. Sức nghiệp rất mạnh đưa đẩy con người đi không có lúc dừng, không biết sợ sệt, bất chấp cả hiểm nguy. Tất cả chúng ta đã gây nhân thì phải thọ quả, nhân là đoạn đầu, quả là đoạn cuối. Từ đầu đến đoạn cuối, cái gì dẫn mình? Nghiệp.
Chúng ta hiểu nhân quả thì phải hiểu lý nghiệp báo. Ai làm lành sẽ được quả báo lành, quả báo ấy không hẳn ngày mai ngày mốt tới, mà đôi khi cách xa. Như trong kinh Phật dạy, người tu nhân Thập thiện đời sau được sanh về cõi trời, nghĩa là khi người ấy nhắm mắt nghiệp sẽ đưa họ lên cõi trời. Cũng vậy người tạo những nghiệp ác nặng nề, nhắm mắt nghiệp dẫn xuống địa ngục.
Gần nhất như những kẻ trộm cướp giết người, khi gây nhân đó họ sẽ thế nào, sẽ bị cảnh sát dẫn vô tù. Vậy cảnh sát dẫn chớ đâu phải nghiệp dẫn. Hiểu như thế không đúng. Nếu cảnh sát dẫn vô tù, tại sao họ dẫn người này mà không dẫn người khác? Tại người nào có nghiệp tương ưng với nhà tù họ mới dẫn chứ! Do nghiệp đưa đẩy kẻ gây tội lỗi tới, cảnh sát mới dẫn họ đi. Chúng ta trách cảnh sát bắt chớ đâu ngờ chính nghiệp của người ấy bắt họ vào tù. Làm ác thì có tội ác nên phải chịu quả ác, làm lành được hưởng quả lành. Động cơ đưa chúng ta đến chỗ thọ quả là nghiệp, nên nghiệp có chia nghiệp lành, nghiệp dữ.
Khi đức Phật ngồi dưới cội bồ-đề đêm thứ bốn mươi chín, từ canh một đến canh hai Ngài chứng được Túc mạng minh, tức là biết suốt vô số đời về trước của mình. Từ canh hai đến canh ba Ngài chứng được Thiên nhãn minh, thấy suốt được những gì vi tế nhất, xa xôi nên Ngài bảo ta thấy chúng sanh bị nghiệp dẫn đi luân hồi trong lục đạo, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, thấy kẻ qua người lại rõ ràng. Vì thế Phật nói tất cả chúng sanh đều do nhân mình đã tạo, bị nghiệp dẫn đi thọ quả báo. Từ đó đức Phật chỉ rõ nghiệp là một sức mạnh thúc đẩy chúng ta đến các đường để trả hay hưởng quả mà mình đã gây nhân chín muồi.
Khi Phật thấy được nghiệp, Ngài cũng thấy được những vật nhỏ nhiệm nhất như vi trùng. Thời đức Phật hơn hai ngàn năm về trước mà Ngài đã thấy vi trùng. Phật nói trong nước có rất nhiều vi trùng, vì vậy mỗi khi các thầy Tỳ-kheo muốn uống nước chưa lọc phải đọc kệ:
Phật quán nhất bát thủy,
Bát vạn tứ thiên trùng.
Nghĩa là Phật xem trong một bát nước có tám muôn bốn ngàn vi trùng. Lúc đó ai biết? Chỉ có thiên nhãn mới thấy. Một lần nọ có thầy Tỳ-kheo đi trong sa mạc, khát nước quá mà không còn nước uống. Thấy một vũng nước, thầy định vốc lên uống, nhưng dùng thiên nhãn thấy vô số vi trùng nên không uống được. Thầy nhịn khát luôn, về đến chỗ Phật, thầy ngất xỉu. Quí thầy xúm lại hỏi lý do mới biết thầy thấy vi trùng nhiều không dám uống nước, sợ chúng chết.
Chúng ta mắt phàm tục không thấy những vật thật nhỏ, thật xa nhưng với con mắt Phật và các vị chứng A-la-hán thấy rõ ràng. Có những loài thấp hơn loài người thấy được những gì người không thấy. Như mấy con chó trong xóm, người ăn thịt chó đi vô xóm, dù tay không xách dụng cụ bắt chó mà đi tới đâu nó sủa rần tới đó. Nó thấy cái gì? Nó thấy nghiệp ác độc của người đó mà mắt mình không thấy.
Thế nên đừng vì lý do chúng ta không thấy mà nói không có. Sức mạnh của nghiệp dẫn chúng sanh đi trong lục đạo, nó không có tướng mạo thô để chúng ta thấy nhưng nó vẫn có tướng vi tế. Vì vậy người tạo nghiệp lành, nghiệp dữ sẽ bị nghiệp lực của mình dẫn đi thọ sanh trong cõi lành, cõi dữ. Chúng ta là Phật tử muốn đi đường tốt thì phải tạo nghiệp lành. Tạo bằng cách nào? Bằng thân, miệng, ý của chính mình. Tu là chuyển đổi thân, miệng, ý được trong sạch, để nghiệp lành ấy dẫn mình đi tới chỗ lành. Nếu thân, miệng, ý xấu ác thì nghiệp xấu sẽ dẫn chúng ta vào chỗ khổ đau.
Thân làm gì để tạo nghiệp lành? Thân giúp đỡ những người khổ sở, đói khát, bị tai nạn v.v… Ta giúp họ bớt khổ, người bệnh sớm lành bệnh, đó là tạo nghiệp lành. Ngược lại, chúng ta muốn đánh người này, đập người kia, giết người nọ là tạo nghiệp dữ. Hoặc đối với con vật không thương tiếc, vật lớn vật nhỏ gì cũng muốn giết. Những người như vậy là tạo nghiệp dữ. Tạo nghiệp dữ thì sức dẫn của nghiệp đẩy tới chỗ khổ, chớ không phải trời Phật hành phạt đâu. Người đời không biết cứ tưởng có một đấng nào cầm cân nẩy mực, ghi sổ sách, chừng nào mình chết người đó kêu lên chỗ lành hoặc đày xuống chỗ dữ. Đó là tưởng tượng không phải lẽ thật. Phật dạy chúng ta tu để tránh nghiệp dữ, tạo nghiệp lành, làm sao hiện đời mình sống tốt mà vị lai cũng được tới chỗ tốt.
Kế đến miệng. Miệng chúng ta luôn nói lành hay cũng có khi nói lời dữ? Điểm này Phật tử dè dặt một chút. Hành động nơi thân thô nên ta kềm chế dễ, còn miệng tế hơn nên khó kiểm soát được. Nếu giận ai nói lành được không? Không nói lành được thì nói dữ. Nói dữ là tạo nghiệp dữ. Nói dữ cũng có nhiều loại, nói dữ trong cái tương đối và nói dữ tuyệt đối. Ví dụ nguyền rủa ai chết đi hoặc dùng lời nói làm cho người ta bị tù tội… đó là nói dữ tuyệt đối. Còn nói dữ tương đối là buồn giận trách cứ người xấu dở, thế này thế kia mà chưa làm cho người ta khổ.
Chúng ta kiểm lại từ bé tới giờ, mình nói dữ nhiều hay nói lành nhiều? Bằng nhau. Bằng nhau không biết nghiệp đẩy đi đâu đây? Nếu dữ thì đi cõi dữ, lành thì đi cõi lành, còn quân bình thì không biết đi cõi nào? Thật ra cũng có chỗ đi. Nếu nghiệp cực lành như tu Thập thiện thì lên cõi trời, còn lành dữ bằng nhau như Phật tử giữ năm giới thì trở lại làm người tốt. Nếu người không giữ năm giới, hoặc chỉ phạm một hai giới thì đời sau cũng được làm người, nhưng có những khiếm khuyết. Như người không giữ giới trộm cướp, đời sau được làm người thì nghèo đói, khổ sở.
Nhìn trong xã hội chúng ta thấy có người siêng năng làm bao nhiêu, rồi bị bệnh hoạn cũng không còn. Có những người phước đức đầy đủ, có những người tật nguyền… tất cả đều là người, nhưng không trọn vẹn. Vì vậy nghiệp sẽ dẫn chúng ta tới chỗ tương ưng với nhân mình đã tạo, không bao giờ không có chỗ đi. Còn nghiệp là còn có chỗ đi. Đi đâu cũng phải đi, hoặc trong cảnh tốt trong cảnh xấu thôi.
Người sanh ra trong gia đình quan lớn hoặc nhà giàu to thì họ hưởng liền. Còn người có nghiệp lành nhưng không khá thì tới chỗ bình thường. Người nghiệp lành ít sẽ đến những chỗ khổ hơn. Hiểu như vậy chúng ta cố gắng nỗ lực tạo nghiệp lành cho được vuông tròn. Vì vậy quí vị ráng giữ cho tròn năm giới, đời sau trở lại làm người bảo đảm tốt đẹp, không có những tệ hại.
Đến ý nghĩ. Ý chúng ta luôn luôn nghĩ tốt, nghĩ phải hay cũng có khi nghĩ xấu, nghĩ bậy? Người nghĩ tốt nhiều, người nghĩ xấu nhiều phải không? Ý mới nhìn nó chưa thành nghiệp, bởi vì nếu ý nghĩ xấu mà miệng không nói xấu, thân không làm xấu thì chưa thành nghiệp, nhưng nó lại là chủ tạo nghiệp. Vì vậy đối với ý chúng ta dè dặt nhiều nhất. Có khi nào mở miệng chửi người ta mà tự chửi đâu, có giận có tức trong lòng mới chửi được chứ! Cho nên động cơ chủ là ý. Ý nghĩ lành nghĩ dữ, từ đó khởi ra miệng và hành động. Nên người biết tu phải cố gắng gìn giữ ý, giữ thân miệng mà không giữ ý thì không bảo đảm.
Chúng ta kiểm lại ý nghiệp của mình có được trong sạch không? Tất cả đều lắc đầu. Đó là một khuyết điểm lớn. Người tu không chỉ thấy cái xấu dở ở ngoài thôi, mà còn thấy cả cái xấu dở ở trong nội tâm mình, để cố gắng điều phục nó, dọn dẹp cho nó trong sạch, yên ổn. Đó là người tu kỹ, tu chín chắn. Nếu ý nghiệp thanh tịnh thì chắc chắn thân, miệng sẽ được thanh tịnh. Vì vậy chúng ta mới hiểu tại sao mình phải vô chùa tụng kinh, ngồi thiền. Để chỉnh lại ý nghiệp của mình, làm sao cho tâm ý luôn nhớ Phật, không nghĩ bậy, tập luyện lâu ngày như vậy trở thành thuần thục. Cho nên tu theo đạo Phật, ý nghiệp là tối quan trọng, nó là mấu chốt tạo nên tội khổ hay quả an vui cho mình mai kia.
Như vậy rõ ràng ba nghiệp là chỗ tạo nhân đưa đẩy chúng ta tới nơi lành dữ, tốt xấu… cho nên hằng ngày ta phải tu ba nghiệp. Nhiều Phật tử cho rằng tu là rằm, ba mươi đi chùa sám hối, mà về nhà cũng y nguyên không sửa đổi những nghiệp xấu, như vậy không thể gọi là tu được. Chữ tu là sửa đổi, sửa đổi ba nghiệp từ xấu thành tốt, từ dữ thành hiền. Nếu để nguyên nghiệp xấu rồi lạy Phật, xin cho con cái này cái nọ, Phật không cho thì buồn nói Phật không linh, thế là tìm bà này ông nọ linh hơn. Như vậy có tu không? Đó là đi xin chớ không phải đi tu.
Chúng ta học Phật cần hiểu cho thật rõ, tu là chuyển hóa ba nghiệp từ xấu dở trở thành hay tốt. Trong kinh Phật có dạy, “tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng Tây phương”, nghĩa là ba nghiệp thường trong sạch, đồng với Phật về cõi Phật. Phật tử tu nhưng không chịu nhớ, không chịu thấy gốc của sự tu thì làm sao tu đúng được. Tu không đúng thì không đạt được kết quả tốt đẹp. Chúng ta ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống tu hành phải nhớ rõ cái gì là căn bản, cái gì không phải căn bản. Quí Phật tử hay cầu xin Phật Bồ-tát cho, phần nhiều phái nữ mắc bệnh này. Chữ tu khác với chữ xin.
Ví dụ một người Phật tử rất thuần thành, khi có việc sắp đi đâu, lại thắp hương bàn Phật nguyện Phật gia hộ cho con đi đường bình yên. Nhưng đến đâu đó ai chọc tức liền đánh nhau với người ta, như vậy có bình yên không? Chúng ta giữ ba nghiệp của mình thì bảo đảm được bình yên, chớ xin Phật mà không giữ ba nghiệp thì cũng không bảo đảm. Như vậy rõ ràng giữ ba nghiệp hiệu nghiệm hơn cầu xin đức Phật rồi. Cho nên cầu xin là tưởng tượng thiếu thực tế. Đức Phật đã từng tuyên bố rằng ta không có quyền ban phước xuống họa cho ai. Vậy mà Phật tử cứ kèo nèo xin hoài. Nên đạo Phật rất thực tế mà Phật tử không khéo trở thành mê tín, không thực tế.
Người hiểu Phật cần tu chớ không cần xin. Cầu Phật cho không bằng biết tu, biết sửa mình. Nếu cho được thì Phật không nói nhân quả, làm nhân lành được hưởng quả lành, làm nhân ác phải chịu quả ác. Phật tử cứ tưởng Phật chen vô luật nhân quả, can thiệp cho mình, cầu điều gì không như ý thì trách Phật nữa chứ, “đệ tử đi chùa hoài mà Phật không độ”. Hiểu đạo Phật như thế là hiểu một cách nông nổi, không đúng với ý nghĩa Phật dạy.
Trọng tâm của đạo Phật dạy chúng ta phải tu ba nghiệp. Quí Phật tử nhớ khi qui y rồi, quí thầy phát cho lá phái, trong đó có bài kệ rất thiết yếu. Bài kệ này do đức Phật Ca-diếp trước trao cho Phật Thích-ca:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
Dịch:
Chớ làm các điều ác,
Vâng làm các việc lành,
Giữ tâm ý thanh tịnh,
Là lời chư Phật dạy.
Phật dạy chúng ta điều gì? Không làm các điều ác tức là dừng nghiệp chúng sanh. Vì làm các điều ác là bước vào con đường khổ, nên Phật bảo đừng làm các điều ác để chận đứng nghiệp đau khổ. Vâng làm các điều lành là làm các việc lành để chúng ta sẽ được sanh về chỗ lành. Như vậy người đến với đạo Phật đầu tiên là dừng ác, bước thứ hai là làm lành. Đến bước thứ ba giữ tâm ý thanh tịnh, đó là lời dạy của chư Phật. Ngay trong đời này nếu người nào dừng hết những điều ác, luôn luôn làm điều lành, tâm ý được trong sạch thì thế gian này sẽ thấy họ là người rất tốt. Người tốt thì có ai thù ghét đâu, còn nếu người xấu thì xã hội ruồng bỏ.
Người biết tu chẳng những mai kia có quả báo tốt mà ngay bây giờ cũng có kết quả tốt rồi. Thế thì việc tu là cần hay không cần? Nhiều Phật tử nói mắc lo cơm ăn áo mặc, đâu có rảnh mà tu. Quí vị kiểm lại xem chúng ta cứ sống mãi thế này hay một ngày nào đó cũng phải chết? Đức Phật đã từng nói sanh, già, bệnh, chết là con đường ai cũng phải đi qua, không ai dừng được. Bây giờ chúng ta cứ lo cho thân này ăn ngon, mặc đẹp… lo riết tới già chết không biết mình sẽ ra sao, lúc đó khổ không? Cho nên nói tới chết ai cũng sợ. Tại sao? Bởi vì chưa tạo nghiệp lành, một khi nhắm mắt ra sao không biết, vì vậy hoảng hốt.
Tôi thường ví dụ như người ở nước Việt Nam được mời đi dự tiệc chi đó. Nếu trong túi không có đồng xu, cũng không ai đón rước, khi sửa soạn đi người ấy có sợ không? - Sợ. Còn trong túi tiền nhiều, đến chỗ kia lại có bà con mình nữa thì sợ không? Vui chớ sợ gì. Cũng thế, chúng ta ngày nay làm chúng sanh, tới khi chết hoảng hốt không biết mình sẽ thế nào nên đa số sợ chết. Còn ngày nay biết tu, biết làm lành, khi ra đi biết chắc mình sẽ được kết quả tốt hơn nên không lo sợ chút nào hết vì biết mình bỏ cái cũ xấu để được cái mới tốt hơn.
Chúng ta hiểu rõ đạo lý, ứng dụng đạo lý ngay khi sống, chuẩn bị cho ngày mai cái chết đến được nhẹ nhàng không lo sợ, như vậy khôn hay dại? - Khôn. Còn những người chỉ biết ăn no, mặc ấm, hưởng thụ nhiều, không lo tu tới gần chết hoảng hốt là dại hay khôn? Tôi không dám nói dại mà chỉ nói họ “không biết lo xa”. Vì không biết lo xa nên tới đó hoảng hốt kinh hoàng. Người tu là người biết chuẩn bị cho mình con đường đi đàng hoàng chu đáo, nên lúc ra đi tỉnh táo không sợ hãi chi cả.
Ngày xưa ở Trung Hoa có một thi sĩ nổi tiếng là Bạch Cư Dị, ông nghe danh vị Thiền sư ngồi tu trên cây ngộ đạo. Ông liền tìm tới thấy ngài ngồi trên chạc ba cây, ông chắp tay thưa:
- Bạch Hòa thượng, xin dạy cho con một câu chí lý để con tu.
Thiền sư ngồi trên cây đọc bài kệ:
Chư ác mạc tác,
Chúng thiện phụng hành,
Tự tịnh kỳ ý,
Thị chư Phật giáo.
Bạch Cư Dị nghe xong nói:
- Bạch Hòa thượng, bài kệ này con nít tám tuổi cũng thuộc, Ngài dạy con làm chi.
Thiền sư đáp:
- Phải! Con nít tám tuổi cũng thuộc mà ông già tám mươi tuổi làm vẫn chưa xong.
Cũng vậy, Phật dạy bài kinh Bát-nhã “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách” quí vị thuộc làu, mà hết khổ chưa? Phật dạy phải thực hành sâu Trí tuệ Bát-nhã, soi thấy năm uẩn là không thì qua hết tất cả khổ nạn. Phật tử cứ bao nhiêu đó tụng hoài, đem tụng cho Phật nghe, nhưng không chiếu kiến gì hết, rồi than Phật dạy tụng Bát-nhã qua hết khổ nạn, sao bây giờ khổ nạn còn hoài, trách lời Phật dạy không đúng sự thật. Nhưng thật ra đâu phải vậy. Nếu người soi thấy năm uẩn Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức là duyên hợp không thật, thấy rõ như vậy thì khổ nạn nào cũng qua hết. Phải soi thấy chớ không phải đọc suông. Chúng ta bây giờ cứ đọc suông cho nên bao nhiêu năm tu mà không tiến, đó là lỗi của Phật tử chưa biết tu.
Nếu mình y như lời Phật dạy, dùng trí tuệ soi thấy năm uẩn duyên hợp hư dối, biết rõ nó như vậy có ai chửi mình không giận. Thân hư dối này có nghĩa gì, thì lời chửi có thật đâu, như vậy giận cái gì? Ai hơn thua với mình, ta cũng thấy không thật nên không giận, không giận thì không khổ nên nói qua hết thảy khổ ách. Chúng ta chỉ ứng dụng một câu đó tu, khổ cũng đã tan mất rồi. Ngược lại không ứng dụng tu mà cứ đọc suông thì đọc cho tới nhắm mắt khổ vẫn khổ như thường.
Trong Bát-nhã có chia làm ba thứ: Văn tự Bát-nhã, Chiếu kiến Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Chúng ta đọc thuộc là văn tự, chưa phải chiếu kiến thì chưa thể qua hết khổ nạn. Trong nhà Phật có dùng ví dụ, như người muốn qua sông, xuống bến thấy có chiếc thuyền yên lòng mình sẽ qua được sông. Rồi lên thuyền ngồi hoài không chịu bơi, không chịu chèo, như vậy chừng nào qua tới bờ kia. Chiếc thuyền dụ cho Văn tự Bát-nhã, chiếu kiến dụ cho chèo, bơi. Bờ bên kia tức là tới được bờ giác ngộ là Thật tướng Bát-nhã.