Hôm   nay, chúng ta sinh hoạt về đề tài tinh thần trang nghiêm hoặc tinh  thần tu học  của người con Phật nói chung, của người tu thiền nói riêng. Nói   đến “tu thiền”, tức là nói đến “tu tâm”, căn cứ từ tâm mà tu. Nhưng  tâm là gì?  Thường mỗi người chúng ta gọi cái mà ta ôm giữ, suy nghĩ,  sống hằng ngày và sử  dụng trong mọi tương giao, đối duyên tiếp cảnh là  tâm. Nhưng đức Phật lại gọi đó  là “vọng tưởng”. Vì tâm này không phải  là tâm thật.          
  Trong   kinh Lăng Nghiêm, Phật dạy tâm ấy là “những tướng tưởng của tiền trần,  là tướng  phân biệt bóng dáng của pháp trần”. Đó là bóng dáng tồn đọng  của những cảnh  duyên trước mắt. Từ chỗ nhận lầm vọng tưởng lăng xăng  này là tâm, mà chúng ta  không nhận ra được cái thực, để rồi chạy theo,  vướng mắc, gây tạo những rối rắm  chung quanh, không thể nào thoát khỏi  luân hồi quả báo. Cứ vậy mà ta loay hoay  trong vòng cuộc sống. Cuộc  sống này mất đi, ta gầy dựng cuộc sống kế tiếp,  chuyên nắm bắt, vướng  mắc bởi vọng tưởng. 
  Người   tu Phật muốn nhận được tâm thật, chỉ khi nào trị được vọng tưởng, trị  được những  biến động lăng xăng ngược xuôi trong sinh hoạt, trong các  đối duyên xúc cảnh của  mình. Nghĩa là, người nào làm chủ, sắp xếp làm  sao để được bình ổn với các cảnh  duyên, thì người ấy sống được với tâm  thật của mình.
  Như   vậy, bước đầu của việc tu hành là phải thấy cái gì là giả, cái gì là  thật. Người  tu thiền phải nhận cho bằng được cái thật ấy. Nếu không, dù  ngồi thiền một ngày  bao nhiêu tiếng, tụng kinh sám hối bao nhiêu lượt,  mà một bề chấp giữ vọng tưởng  cho là thật, thì nhất định những mong  mỏi, cầu nguyện của chúng ta tu tập hằng  ngày sẽ không có kết quả.
  Khi   biết đó là vọng tưởng, bước kế tiếp là cố gắng đừng để vọng tưởng kéo  lôi. Đây  là một quá trình công phu, đòi hỏi người tu thiền phải nhìn rõ  và phải thật sự  sống được như vậy. 
  Về   việc công phu, người xuất gia chúng tôi cũng như quí Phật tử, tùy theo  hoàn cảnh  và căn nghiệp của mỗi người mà hằng ngày áp dụng công phu có  khác nhau. Không có  một pháp tu cố định nào đối với người tu thiền.  Nói thế không có nghĩa là chúng  ta không tu, không công phu. Trong giai  đoạn này phải có công phu! Chính nhờ  công phu, chúng ta mới có thể  biết các biến động lăng xăng, ngược xuôi kia chỉ  là vọng tưởng không  thật. Cái biết đó không phải là một bài kinh hay một phương  pháp cố  định, nên nói thiền pháp không cố định. Dù là cái sẵn có, tuy nhiên cái   biết ấy không phải tự dưng mà nhận lại được. Nó đòi hỏi phải có công  phu, quá  trình tu tập và kinh nghiệm.
  Tổ Qui  Sơn nói: 
   Mặc cho pháp tánh tự nhiên lưu xuất, 
 Quản lý thấy nghe giữ được mực thường, 
 Ứng dụng tự tại đối với sự lý,
 Hoàn toàn siêu việt!
  Ngài   không dạy chúng ta phải tụng kinh A Di Đà hay Phổ Môn, mà chỉ dạy  chúng ta đừng  để mất cái biết là tâm thể hằng tỉnh, hằng sáng, hằng  tri. Để cho cái tự nhiên  của chính mình lưu xuất không làm nó đứt đoạn,  ấy gọi là “mặc tình”. Người có  chút công phu, nhận lại được, nhưng lại  không sống được thường hằng với nó, như  “người bị sốt rét cách ngày”.  Chính là vì vẫn còn ôm ấp vọng tưởng, dong duổi  theo ngoại cảnh, thành  ra không sống được thường hằng với tánh giác sáng suốt  thường nhiên. 
  Muốn   sống được như vậy, phải “quản lý thấy nghe” đừng để chúng xuôi ngược,  vướng mắc  tiền trần, cảnh duyên. Đây là chỗ chúng ta công phu, phải  khéo nhận! Vậy thì quí  vị thấy tu hành đâu có khó, phải không? Chỉ cần  làm chủ được các giác quan là  tu. Các giác quan là mắt thấy, tai nghe,  mũi ngửi, lưỡi nếm, thân xúc chạm, ý  lung tung linh tinh. Làm chủ được  các giác quan tức làm chủ được các “hiện hình”  của mình ngay hiện tại.  Tôi nói “hiện hình” ở đây, nghĩa là những tướng ứng hiện  ra bên ngoài  tương ứng với các vọng tưởng do chúng ta không làm chủ được khi đối   duyên tiếp cảnh. 
  Khi   chúng ta “phục hồi” được tánh giác của mình, nghĩa là nhận lại, sống  và thường  sử dụng được nó, thì ta mới không lầm đối với các pháp. Thứ  gì giả biết giả,  không mắc mứu, không chạy theo, không bị sức hút của  cái giả đó quấy rầy. Vì vậy  trong nhà thiền hay dùng hai chữ “bất động”  để chỉ cho cái không chạy theo này.
  Ngoài   ra, chúng ta hay nghe đến cụm từ “kiến tánh thành Phật”. Tánh là tính  chất. Khi  nói đến tánh là nói đến cái gì không bị sai xiển, đổi thay  hoặc bị động. Kiến là  thấy. Kiến tánh tức là thấy tánh. Vậy thôi! Mà  kiến tánh thì thành Phật. Giờ  nghiệm lại xem chúng ta có kiến tánh  chưa? Cũng có chứ! Nhưng lại dẫm chân lên  bệnh sốt rét cách ngày. Chẳng  hạn như đến giờ tụng kinh, công phu, ai rủ mình đi  chơi, mình thấy  “không thể được”. Cái tỉnh không bị động ấy là gì? Nhưng chúng  ta thì  lại không nuôi dưỡng những bất động đó. Mình còn chút nghi ngờ, cho nên   nghe người ta rủ, mình lập tức gật đầu hay là “để coi”. Đó là phút giây  mình rủ  ma quái vào nhà. Cứ như vậy mà ngày này tháng nọ qua đi. Kết  quả là... mất mình!  Vì lý do đó, Hòa thượng dạy chúng ta phải có tâm  kiên cố và trường viễn. Thành  ra lịch tu hành là cần thiết đối với  những người yếu đuối như chúng ta.
  Đó  là  giai đoạn sơ khởi trong việc tu hành. Những phút giây lóe lên theo  kiểu hằng  ngày này đánh dấu từng buớc, từng giai đoạn một. Dù chưa phải  thật, nhưng nếu đi  đúng những bước đó thì cuối cùng sẽ gặp được ông  chủ. Còn không biết nuôi dưỡng  thì những lóe sáng ấy không có cơ hội  phát triển. Cũng như từ ba đến năm giờ  sáng chúng ta ngồi thiền, tâm  được lắng dịu sáng suốt chút ít. Qua năm giờ trở  đi, thì thôi tính toán  ngược xuôi, ma quỉ hiện hình. Tối lại cầu Phật lễ lạy sám  hối... thì  có khác gì người lữ hành đường xa mệt nhọc, bước một bước lùi hai  bước,  bước ba bước lùi sáu bước thì có trải qua ba đại a tăng kỳ kiếp tu cũng   chưa xong.
  Chúng   ta thường có tật dễ duôi qua ngày. Thấy cái gì bi đát, nhìn một hiện  tượng kinh  khủng thì có tỉnh, nhưng nuôi dưỡng cái tỉnh ấy hay phát huy  trạng thái tâm thức  đối với sự kiện ấy để tu thì không. Vừa tỉnh liền  mất. Trong đời sống hằng ngày,  ta chứng kiến biết bao nhiêu thứ: già,  bệnh, địch họa, thiên tai... thấy thì có  sợ. Nếu nuôi dưỡng cái sợ đó  để tu thì chắc chúng ta thành Phật tức khắc.
  Nhưng  mà không! Đi một khúc gặp ca nhạc thì quên ngay, nhào vô tham dự. Thành giải ngộ  thì nhiều mà chẳng đến đâu. 
  Tôi   nói về từ “giải ngộ”. Giải nghĩa là mở ra những cái gì bị cột trói.  Trong cuộc  sống hằng ngày nếu khi nào mình cũng được như ý thì mình  không có giải ngộ. Kiểm  nghiệm ở đời mà thấy thì, đời người từ lúc mọc  răng sữa, cho đến lúc thay răng  thiệt, chưa ai hoàn toàn được như ý.  Thậm chí như đức Thế Tôn của chúng ta, đang  đầy đủ tiện nghi, được tôn  kính, tán thán phú quí vượt bực, rồi cũng bất như ý.  Khi biết mình cũng  không thoát khỏi được già, bệnh, chết như những người khác,  Ngài đã bỏ  tất cả để tìm đường giải thoát. Giải ngộ của Ngài như vậy, đưa đến  kết  quả như vậy! 
  Còn   chúng ta, những bấp bênh về tiền tài địa vị công danh nhan nhản trước  mắt, hoặc  những thông điệp từ Diêm vương gởi lên như cái đau, cái bệnh,  cái già, cái  yếu... là những cái giúp ta giải ngộ rất nhiều. Nhưng  chúng ta làm lơ, đánh mất  những cơ hội tốt, để rồi ngày tháng trôi qua.
  Ngày   nay chúng ta được duyên may gặp Phật pháp, nhận được pháp tu và trong  công phu  hằng ngày chúng ta đã thể nghiệm thấy đúng thì cố gắng phấn  đấu. Không có chuyện  gì làm mà không trải qua khó khăn lại được thành  công liền. Tuy nhiên người xưa  nói “Vấp ngã chỗ nào thì đứng lên chỗ  ấy” và gương của người xưa thành tựu cũng  không ít. 
  Chúng   ta vì không có quyết tâm, không tin tưởng vào bản thân mình. Đừng nghĩ  rằng,  những điều trên chỉ dành cho bậc thượng căn thượng trí, còn  chúng ta sanh nhằm  đời mạt pháp nên vô phần. Pháp của Phật là thuốc trị  tất cả bệnh của chúng sanh.  Có uống, có thực hành thì chắc chắn chúng  ta sẽ nhận được kết quả. Sở dĩ ta  không hết khổ, đối duyên tiếp cảnh  vẫn bị động là vì ta không tu, không hành,  không áp dụng lời Phật dạy  cho đúng. 
  Cơ  hội  giải ngộ, kiến tánh không ai là không có, nhưng cứ dễ duôi, hoặc  an phận “số tôi  như vậy”. Đó là sai lầm của rất nhiều người. Trong Phật  giáo, không có cái “số  tôi”. Người con Phật phải luôn luôn có tinh  thần phấn đấu, quyết tâm. Đừng buông  xuôi theo những khó khăn hay những  vấp ngã... Đừng để đến khi mắc bệnh nan y,  hay già lụm khụm mới nghĩ  đến chuyện tu, làm sao tu được. Lúc khoẻ đây, phấn đấu  còn không nổi,  nói gì đến lúc ấy. Vả lại, biết mình sống được đến già hay không?  Xin  chớ có hẹn! 
  Phần   trên tôi nói lược về những điểm cần thiết cho bước đầu tiến hành công  phu. Nói  chung từ những hiện tượng trong cuộc sống hoặc từ lòng tin, từ  công phu, chúng  ta có giải ngộ, có kiến tánh, nhận được cái gì là giả  cái gì là thực. Từ đó tùy  căn nghiệp của mỗi người, chúng ta công phu  để dần dần trở về sống được với tâm  thể sáng suốt bất động của mình. 
  Tiếp   theo tôi nói về cửa phương tiện giúp chúng ta làm chủ các giác quan  như thế nào.  Theo lời dạy của các bậc thiện tri thức đi trước, có ba  cửa: Chỉ, Quán, Thiền.  Với ba cửa này chúng ta có thể dung hợp tu tập.  Tuy nhiên quan trọng là đừng  đứng trước cửa này, mà nhìn sang cửa khác  do dự và để thời giờ trôi qua lãng  phí. 
  CHỈ  là  dừng, là dứt các vọng niệm lăng xăng. Đã gọi là vọng mà nói dứt nói  dừng là sao?  Thật ra đó chỉ là một cách nói. Chủ yếu là làm sao có trí  tuệ, để đừng bị nó dẫn  dắt, kéo lôi. Không để bị dẫn tức là dừng được.  Không để bị kéo lôi tức là dứt  được. Không mắc mứu si mê theo vọng  tưởng, nghĩa là ta đã trở về sống được với  cái thực. Chỉ cần một cửa  này, ta đã vô nhà được rồi. Quí vị thấy có đơn giản  không? Chỉ cần  “nghĩ bậy thì dừng, bị vọng kéo lôi thì dứt”. Tuy nhiên không có  trí  tuệ, chỉ ham ăn ham ngủ thì quả thật không phải dễ!
  QUÁN   là để thấy rõ các vọng niệm không thật. Việc này cũng cần có trí tuệ. Ở  đây tôi  lấy một ví dụ cho dễ hiểu. Có người nói “Anh là con khỉ”. Suy  cho cùng thì có  nói mình là con khỉ, mình cũng không thể thành con khỉ  được. Vậy thì có gì đâu  mà giận, mà tức? Còn nếu mình giận, mình tức,  thì hóa ra mình chấp nhận từ “con  khỉ”. Tuy nhiên trong cuộc sống, mình  ít chịu quán xét, nghe là lập tức đùng  đùng nổi giận và đánh mất tánh  thường hằng sáng suốt của mình. 
  Nhìn   kỹ lại cuộc sống này, thương, giận, vui, buồn... có gì tồn tại lâu  dài? Thân  này, tâm này rồi cũng mất. Nhưng chúng ta bị mắc kẹt, bị  vướng lầm cho nên không  kiến tánh, không sử dụng được cửa quán để đi  vào tâm thể thanh tịnh. Nếu thường  xuyên sử dụng liên tục một cửa quán  không thôi, thì ta cũng bình ổn, thoải mái,  mặc tình mà sống. Vì vậy  người tu không thể thiếu quán chiếu, tức trí tuệ là đèn  soi đường cho  ta tránh hầm hố gai góc. 
  THIỀN   là cửa bất động đối với tất cả niệm tưởng. Hòa thượng Viện Trưởng dạy:  “Ai buông  được các vọng niệm khi chúng dấy khởi là người bất động”.  Công phu này không  phải đợi đến chùa, ngồi trước tượng Phật hoặc trong  điều kiện thuận lợi mới tu  được. Ta có thể áp dụng mọi lúc mọi nơi, khi  đang đi, đang ngồi, đang nấu cơm,  đang giặt giũ... Niệm dấy khởi, biết  không thật, buông. Cứ thế. Người như vậy là  người có định tuệ, sử dụng  được chỉ và quán. Có thể nói thiền là cửa duy nhất để  hành giả được an  nhiên, tự tại khi bước vào đó.
  
Tóm   lại, về phương pháp tu hành công phu hằng ngày thì có nhiều, tùy theo  căn cơ  trình độ hoàn cảnh sức khoẻ của từng người. Nhưng đối với sự  hiểu biết và kinh  nghiệm để áp dụng thì “Chỉ - Quán - Thiền” nhất định  không có sự sai lệch. 
  
Đây  là  con đường tùy thuận tánh Viên Giác. Tánh Viên Giác tức là tánh  giác, sáng suốt  trùm khắp, viên mãn tròn đầy không góc cạnh. Tùy thuận,  nghĩa là không làm mất  tánh Viên Giác. Cửa nào cũng tùy thuận tánh  Viên Giác. Có điều chúng ta dễ duôi,  không quyết tâm. Chúng ta học thì  có học, hiểu thì có hiểu, nhưng bước vào cửa  để đi thì không. Người Tây  phương nói: “Muốn là được, quyết là xong”. Sở dĩ  chúng ta không được  là vì chúng ta không muốn, không quyết. 
  Đời   người ngắn ngủi, nhanh như dòng nước xuôi, chúng ta có duyên đã gặp  được Phật  pháp thì còn chần chờ gì? Cố gắng! Quyết tâm!
Hòa thượng: Thích Nhật Quang
Nguồn: thuongchieu.net