Danh hiệu: Advanced Member
Nhóm: Registered
Gia nhập: 08-06-2014(UTC) Bài viết: 3
Cảm ơn: 2 lần Được cảm ơn: 3212 lần trong 450 bài viết
|
PHẨM 2
DIỆU HẠNH VÔ TRỤ Chánh Văn:
“- Lại nữa, nầy tu Bồ đề! Bồ tát đối với pháp nên không chỗ trụ mà thực hành bố thí. Nghĩa là, chẳng trụ sắc bố thí, chẳng trụ thanh hương vị xúc pháp bố thí.
- Nầy tu Bồ đề! Bồ tát nên như thế mà bố thí, chẳng trụ nơi tướng. Tại sao? Nếu Bồ tát chẳng trụ tướng mà bố thí, phước đức đó chẳng nghĩ lường?
- Nầy tu BỐ đề! Ý ông nghĩ sao? Hư không ở phía đông có thể nghĩ lường được chăng?
- Bạch thế Tôn, chẳng được. - Nầy tu Bồ đề, hư không ở phương Nam, phương Tây, Phương Bắc, bốn phương trên dưới có thể nghĩ lường được chăng?
- Bạch thế tôn, chẳng được.
- Nầy tu Bồ đề! Bồ tát không trụ tướng mà Bố thí phước đức cũng lại chẳng thế nghĩ lường như thế.
- Nầy tu Bồ đề! Bồ tát chỉ nên đúng như điều đã dạy mà trụ.
Đoạn kinh văn này, Đức Phật bảo nên Bố thí chẳng trụ nơi pháp nào cả. Mà Bố thí tức là cho, chia sẻ lại. Như vậy, bố thí mà vô trụ thì làm sao để bố thí. Cho nên, phẩm này Đức Phật mới gọi là “Diệu hạnh vô trụ”. Diệu là không thể nghĩ bàn được. Mà muốn bố thí vô trụ như vậy, người hành giả phải thực hành mà không thực hành theo giáo nghĩa trên. Vì cái bố thì này là bố thí trong tâm pháp thanh tịnh tự có bao đời của chúng ta. Nghĩa là phải xả bỏ tất cả những cái gì, nghiệp quả, thiện ác, xấu tốt của mình đang có. Hãy cho những cái đó, chia sẻ lại những cái đó. Nghĩa là trong từng giác niệm chúng ta không trụ vào một vật, một pháp nào cả. Chia sẻ nhưng không có ai thọ nhận và không có ai cho cả.. Vì tất cả các pháp, nghiệp quả thiệc ác, của cải tài sản, tâm thức chúng ta ảnh hiện từng ngày, từng giờ, từng trong thời gian quá khứ, hiện tại, vị lai. Những thứ đónó đều là một giấc mộng. Như sương buổi sớm như ánh chớp. Nó chợt có, chợt không, nó vô thường biến đổi, nó không có một thật thể nào nhất định cả. Có duyên thì nó trụ hợp, hết duyên thì nó rã tan. Mọi duyên nó đều chi phối theo thành, trụ, dị, hoại, diệt. Nó điên đảo biến chuyển theo vọng tưởng của chúng sanh. Chúng ta càng ngày càng lún sâu trong những cái giả hợp đó không thể tỉnh giác. Chúng ta tự bố thí, thực hành bố thí nhưng đa số chúng ta đặt nền tảng trên sự giả hợp, vô thường để bố thí. Chúng ta lấy những sự nghiệp của cải (Nghiệp lực), tiền bạc, xây dựng trên tinh thần tham, sân, si, tạo tác mâu thuẫn đủ điều trong nghiệp thức, xây dựng cho ta cái ngã chấp để tạo dựng của cải rồi bố thí cho những người khác, có thực sự những chủng nghiệp thấy hiển hiện ra sự khổ đau. Ngay trong pháp bố thí của ta đều nhìn thấy, cảm thụ thật sự những sự nghiệp, nghiệp thức, nhìn nhận tất cả đều có thật, có tướng. Còn ngay chỗ Diệu hạnh bố thí vô trụ của Đức Phật là bảo chúng ta cũng nhìn, cũng thấy, cũng biết ngay chỗ đó những nghiệp thức vô thường giả hợp không có thực thể. Bảo người hành giả phải thường biết mình, biết sự nghiệp nghiệp thức trên chúng là vô thường, thân mình cũng giả hợp vô thường không có nhất định. Một ngày nào đó thân tứ đại này cũng sẽ rã tan, biến dạng, chuyển biến theo nghiệp lực. Đức Phật chỉ bảo rằng, chúng ta hãy thậm thâm quán soi, ngũ uẩn, sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp. Chúng cũng do sự giả hợp mà hình thành. Ngay chỗ đó, ngay khi bố thí đó, ta hãy nhìn thấy cái gì của ta, thí dụ như một người tên A thì cánh tay bên trái có phải của Anh A không? Cánh tay bên phải có phải là Anh A không? Rồi cái đầu, cái chân, ngũ tạng, lục phủ, tóc, tai, da thịt. Riêng chúng cũng không thể nào bảo rằng Anh A cả mà nó phải kết hợp lại những cái trên kia lại, tụ hội lại mới giả danh gọi là Anh A. Nhưng trong từng chi tiết nhỏ như tóc, nước bọt, tay chân, mỗi cái như vậy cũng do rất nhiều tế bào, nguyên sinh tử hợp lại. Nó có vô lượng cái sinh diệt đang ẩn hiện trên một con người giả hợp gọi là Anh A kia. Cho nên, trong hệ tu Bát nhã kim cang, Đức Phật dạy chúng ta phải có cái nhìn như vậy về thân tướng chúng ta. Qua cái nhìn chân thật đó thấy được sự duyên hợp giả có, không thực thế đó. Để ngay chỗ đó mà ta “có biết” để bố thí vô trụ trên. Khi đã nhìn được như vậy tức là ta tự trả về tứ đại đất, nước, gió, lửa. Ngay đó, không có tướng ta. Ngay chỗ đó, chơn thật các pháp đều thể hiện thì cái vô trụ bố thí vô tướng là như thế.
Trên kia, chúng ta nhìn về cái tướng giả hợp thô của sắc tướng. Còn trong tâm thức của ta, cái nào trong ta, trong từng giây phút lăng xăng lộn xộn trong ấy cái nào của ta, cai1o nào nó thật sự đâu thử chúng ta cùng nhau tự chỉ, tự bắt lấy ra trong đầu, trong tâm chúng ta coi cái nào của ta đâu? Có phải niệm giận là của ta không? Có phải sự tạo tác vui vẻ là của ta không? Rồi cái đau thương, cảm xúc nóng lạnh, hình ảnh rớt lại trong tâm ta trong ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai cái nào của ta đâu? Cái nào nó thực của ta thì nó ở mãi với ta, không mất. Cũng như một ngôi nhà, người chủ nhà luôn ở trong nhà, còn những người khác vãng lai đến đi như chúng ta nhìn thấy những hạt bụi lăng tăng, nhảy nhót xôn xao. Trong tâm tưởng trong đầu chúng ta nó cũng lăng xăng vậy đó, hết hình ảnh tốt đến xấu, hết cảm xúc nóng đến lạnh đến thoải mái. Rồi trong đó cũng có nhựng cảnh vô ký tức là chúng ta không thấy cảnh gì cả, niệm gì cả mà có cảm thấy buồn buồn, vui vui, mọi ý niệm xấu tốt có không chen lẫn nhau mà hình thành tâm thức, tạo thành nghiệp thức của chúng ta. Rồi nó dẫn chúng ta đi trong luân hồi sanh tử ba cõi không thoát nổi. Những ý niệm trên, chúng ta học nhận thấy nó về phần thô thôi. Còn về phần vi tế, chúng ta khó thoát. Nó nằm sâu trong sâu thẳm ở bên trong. Như khi chúng ta nhìn thấy một cành hoa, mắt chúng ta (Nhãn căn) tiếp xúc sắc trần là cành hoa thì ngay đó trong nhãn thức bắt đầu có vô lượng hình ảnh cảm xúc nhỏ niệm trong nhãn thức đó. Nó tự duyên với nhau, tự phân biệt rồi đưa ra kết quả là hoa đó đẹp hay xấu hay vô ký. Nó rất ghê gớm ngay chỗ sắc đó. Ngay đó, chúng ta chỉ thấy có một cành hoa thôi tức là chỉ thấy có sắc thôi. Nhưng ngay đó, nó có đủ ngũ ấm: Sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Thấy đóa hoa có kết quả phân biệt rồi cho ra kết quả là hoa tốt đó. Thì cả một quá trình diễn tiến rất nhanh đó trong tâm thức, cảm thọ thương ghét chối bỏ đó nó cũng tham gia. Rồi cái tưởng, tưởng hình sắc của hoa này biến chuyển, chuyển động, đem những cành hoa được tàng trong tàng thức ra bắt đầu tưởng suy ngẫm liên tục. Tức là hành rồi nhận ra thức phân biệt thật là ghê gớm. Đến cuối cùng, chúng ta có kết quả là hoa tốt thì cảm xúc thô nó cũng hình thành theo. Nó làm cho ta có những cảm xúc vui, những động tác cười, chuyển động thân uốn éo để tạo nên hình danh, sắc tướng, tập nghiệp mà hình thành nên giả danh là “hạnh phúc”. Khi đã có những cảm thụ vui sướng kia hình thành thì tưởng thô nó cũng đi theo tưởng tượng được mất, có không, tốt xấu mà sanh ra bảo vệ, giữ những cái có đẹp, hạnh phúc đó thành nghiệp. Cái nghiệp là luôn luôn giả hợp nhiều yếu tố, chi tiết mà hình thành. Khi đã đạt thành nghiệp thức như vậy rồi bắt đầu cái hành là sự tưởng tượng, thọ cảm, sắc, thức liên tục hiển hiện lên không dừng trụ “Hành nghiệp” cái mà nó tiếp nối từ nghiệp này qua nghiệp khác khiến tạo tác cầu thành đó là cái “Lực”, sức mạnh của nghiệp còn gọi là “Nghiệp lực”. Nghiệp lực này nó sẽ dẫn chúng sanh đi luân hồi sinh tử. Thí như người nghiền rượu, khi một ngày không có rượu (sắc) thì cả thọ (thọ), tưởng, hành, thức bắt đầu nó sẽ chuyển biến thúc đầy. Cái lực ngay chỗ đó sẽ chuyển động. Không có rượu, chỗ nơi, mùi vị cay nóng. Khi nhớ đến đó thì cảm thọ, ôm ấp, mê man, vui vẻ khi uống rượu ở trong tàn thức lại về. Lấy cảm, thọ thức này so sánh hiện tại với quá khứ ma sát những cảm xúc đó rồi tự có một cái lực mạnh đòi hỏi phải chuyển động thân tướng ngũ ấm này. Chuyển động tâm thức tưởng tượng liên tục là phải uống rượu thôi chết, thôi mệt khó chịu. Một loạt cảm thọ, hình ảnh so sánh, phân biệt liên tục như vậy. Thì ngay chỗ đó, có đủ sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm Uẩn này mạnh lên nghĩa là chuyển động ma sát liên tục như vậy tạo nên một cái lực kinh khủng gọi là nghiệp lực dẫn người đó bất chấp cái gì trước mắt phải đi tìm rượu để uống. Thì ngay đó, tham, sân, si nó hiện lên tham uống, thèm uống không được thì si mê, mờ mịt, giận hờn, sân hận. Ngay đó tạo nghiệp, hình thành thế giới chúng sanh. Đó là con đường hữu trụ chấp có thật tướng. Nhưng khi hành giả chỉ trong quán soi thiền quán nhìn thấy bản chất của các pháp, nghiệp lực như vậy thì ngay đây hành giả đã có “Diệu hạnh bố thí vô trụ” rồi.
Những chủng nghiệp, niệm tưởng đó nó lăng xăng mãi không dứt. Người hành giả tu trì Mật tong diệu hạnh ngay chỗ đó họ kích thích những cái xấu, tốt vạn pháp đó để được hằng nghe “Úm chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ta bà ha. Bộ lâm”. Kết hợp hai nền tảng Hiển – Mật này để tu học. Bắt buộc mọi người hành giả tu Mật chú Chuẩn đề hôm nay phải hiểu rõ, thấu đạt vạn pháp duyên hợp. Thấy được tất cả các giả danh của nó rồi ngay tức thì ở đó buông xả xuống niệm “Úm chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ta bà ha. Bộ lâm”. Họ sẽ luôn nghe thấy thần chú Chuẩn đề ở bất cứ nơi đâu, ở mọi niệm tưởng. Lấy Thần chú Chuẩn đề làm cọng dây vám cột mũi con trâu nhà mình để cho nó không đi buông lung dẫm đạp trên lúa mạ của người. Cho đến lúc, dây vám thần chú Chuẩn đề có mọi nơi, mọi niệm tưởng, mọi cử chỉ của Trâu nó đều thấy và Trâu càng ngày càng thuần phục. Thì lúc đó, chú mục đồng thảnh thơi ngồi thổi sáo, đi dạo. Đến một lúc nào đó, Thần chú Chuẩn đề “Úm chiết lệ, chủ lệ, chuẩn đề, ta bà ha. Bộ lâm” nó thành từng tế bào, thành từng niệm tưởng vạn. Mỗi mỗi cái, mỗi niệm tưởng như là Thần chú Chuẩn đề thì lúc đó chúng ta đi vào chợ, đi vào Xã hội ở mọi nơi đều có ta. Và mọi nơi đều có Phật Pháp. Lúc đó, tất cả đều là Phật pháp cả. Một sự bố thí buông xả toàn bộ nhưng có tất cả các hạnh bố thí. Đây mới chính là “Diệu hạnh bố thí vô trụ”.
“Tất cả các pháp hữu vi, Như mộng, huyễn, bọt bóng, Như sương cũng như chớp, Nên khởi quán như thế”
Cư Sĩ Thanh Hùng Pháp Hiệu Chánh TríSửa bởi quản trị viên 19/06/2014 lúc 10:29:11(UTC)
| Lý do: Chưa rõ |