Gieo nhân nào tất gặt quả nấy. Người đời không hiểu sâu về quả báo nên một ngày gieo vô biên các nghiệp bất thiện. Do đây mà cả cuộc đời chìm nổi trong nỗi khổ của kiếp nhân sinh
Phàm bất cứ việc thiện ác hay suy nghĩ thiện ác nào của ta đều là gieo về nghiệp Nhân. Phước họa theo đó thọ hưởng gọi là quả báo. Trạng thái nhân quả thật vô cùng. Gây nhân nào tất cảm quả ấy, duy sự báo ứng hoặc đến sớm hay muộn mà thôi. Trong đây, nếu có sự chuyển biến, là do những ảnh hưởng xấu hoặc tốt khác xen vào. Thí dụ, một ly nước trong, như ta chỉ bỏ muối vào, tất nước phải mặn. Nhưng nếu lại để xen thêm đường, vị nước sẽ đổi khác. Sự chuyển biến của quả báo thiện ác cũng như thế.
12 loại quả báo của chúng sinh
Quả báo được đề cập nhiều trong Phật pháp, song có thể tóm tắt trong mười hai điểm:
Quả báo của chúng sinh: 1.Hiện báo
Ðây là quả báo trong kiếp hiện tại. Có nghĩa hiện thế gây nhân thì hiện đời chịu quả. Quả báo nầy có tánh cách mau. Ví như trồng loại cà, ớt hay gieo giống lúa. Chỉ trong vòng một mùa, một năm đã thu được kết quả.
Hiện báo còn gọi là Hoa báo, danh từ nầy hàm ý nghĩa mau lẹ, ảnh hưởng không đợi đến thời kỳ sanh trái, mà đã phát lộ trong thời kết bông. Tục ngữ có câu: “Ðời xưa trả báo thì chầy./ Ðời nay trả báo một giây nhãn tiền”. Hai câu nầy chỉ cho tánh cách của Hiện báo hay Hoa báo.
Quả báo của chúng sinh: 2.Sanh báo
Sanh báo là gây nhân kiếp nầy, đời kế sau mới chịu quả báo. Quả báo nầy có tánh cách hơi lâu. Ví như trồng mụn chuối con, hạ thổ năm nay, sang năm mới có trái.
Trong kinh có câu: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem sự thọ hưởng đời nay. Muốn rõ quả kiếp sau, nên xét sự tạo tác trong hiện tại”. Hai câu nầy có thể chỉ cho ảnh hưởng của Sanh báo.
Quả báo của chúng sinh: 3.Hậu báo
Ðây là nói sự gây nhân trong đời nầy. Đến ba, bốn, trăm, ngàn hay vô lượng kiếp sau mới thọ quả báo. Hậu báo có tánh cách lâu hơn. Ví như trồng những loại cây trong năm nay, đến năm, mười hay đôi ba mươi năm sau mới kết quả.
Trong kinh có bài kệ: “Giả sử trăm ngàn kiếp./ Nghiệp đã tạo không mất./ Khi nhân duyên gặp nhau./ Lại tự chịu quả báo”. Ðại ý bài kệ nầy chỉ cho trường hợp Hậu báo.
Thuở xưa, khi Phật còn ở đời, có ông Thi Lợi Bật Ðề đến một trăm tuổi mới cầu xin xuất gia. Các vị Trưởng lão như Ca Diếp, Xá Lợi Phất, nhập định quán sát. Thấy trong vòng 84,000 kiếp về trước ông thiếu căn lành nên không cho. Ðến khi Như Lai đi khất thực trở về, thấy ông khóc lóc cầu xin, liền chấp thuận. Các vị Trưởng lão hỏi duyên cớ. Ðức Thế Tôn đáp:
“Thi Lợi Bật Ðề trước 84.000 kiếp, tiền thân là lão tiều phu, bị cọp đuổi gấp leo lên cây niệm một câu “Mô Phật”. Do thiện căn ấy đến nay mới gặp ta, và sẽ được đắc độ. Vì nhân lành kiếp trước của người nầy quá lâu xa, nên sức đạo nhãn của các ông không thể thấy biết được”.
Trong kinh có bài kệ: “Giả sử trăm ngàn kiếp./ Nghiệp đã tạo không mất./ Khi nhân duyên gặp nhau./ lại tự chịu quả báo”. Ðại ý bài kệ nầy chỉ cho trường hợp Hậu báo.
Quả báo của chúng sinh: 4.Ðịnh báo
Ðịnh báo là quả báo nhất định phải chịu, không thể chuyển biến được. Bởi sức nghiệp đã quá thuần thục, trong mười phần thành tựu cả mười. Ví như cái nhà hư hao chút ít hay nửa phần, còn có thể sửa chữa được. Nếu kèo cột tường nóc đều hư mục, tất phải chờ cho nó hư hoại để làm ngôi khác.
Như bịnh ung thư trong thời kỳ nhẹ còn có thể chữa được, sang lúc quá nặng chỉ có đợi chết mà thôi. Cổ ngữ có câu: “Dược y bất tử bịnh. Tửu bất giải chân sầu”. (Thuốc chỉ trị những bịnh không chết. Rượu không thể giải mối buồn hiện thật). Mấy câu nầy có thể tượng trưng phần nào cho sự việc trên.
Thuở xưa vua Lưu Ly cử binh đến đánh dòng họ Thích. Ðức Thế Tôn can ngăn ba lần mà không được. Tôn giả Mục Kiền Liên bạch hỏi sao Phật không cứu độ hàng tộc thuộc. Ngài bảo đó là định nghiệp.
Tôn giả không tin, dùng thần thông đem giấu năm trăm người họ Thích trên cung trời. Nhưng khi Lưu Ly Vương dẹp xong hàng Thích Chủng, thì năm trăm người ấy cũng đều thành huyết mà chết. Ðây là một sự kiện chứng minh sức định nghiệp có công năng tuyệt đối mạnh mẽ.
*
Cho nên chư Phật có ba việc làm không được, gọi là “Tam năng tam bất năng”. Các điều ấy là: Chư Phật có thể không tất cả tướng, thông suốt tất cả pháp, nhưng không thể diệt được định nghiệp. Có thể biết cùng tận nghiệp tánh của chúng sanh, rõ thấu tất cả việc trong vô biên kiếp quá khứ và vị lai, song không thể độ những chúng sanh vô duyên. Có thể độ vô lượng chúng sanh, song không thể độ hết chúng sanh giới.
Bởi thế, sức người cố nhiên là hữu hạn, nhưng sức Phật vẫn chưa phải toàn năng. Nếu chúng sanh không tín hướng Ðức Như Lai, không thực hành đúng theo lời Ngài dạy, thì chư Phật, Bồ Tát cũng không thể hóa độ được.
Quả báo của chúng sinh: 5.Bất định báo
Ðây là nghiệp báo có thể chuyển biến sửa đổi được. Như có người trước đã tạo nghiệp lành, đáng lẽ phải hưởng phú quý trọn đời. Nhưng trong lúc làm quan, nếu kẻ ấy tham mê tài sắc, ăn của lót, cưỡng hiếp, hãm hại người. Do đó phước lộc lần lần tiêu giảm, có thể bị tù ngục, ô danh, hoặc chết bất đắc kỳ tử.
Và như kẻ kiếp trước kém nhân lành, nên đời nầy thân phận nghèo khổ, hèn hạ. Song nếu người ấy biết xét lẽ nhân quả tội phước, gắng sửa đổi tâm tánh. Hết sức làm việc phước thiện, thì tội chướng lần tiêu giảm, phước đức lần tăng thêm. Có thể trong hiện tại chính mình hay con cháu sẽ tiến đến cảnh vinh quang.
Ví như trong đời, người tước vị cao mà ỷ thế làm quấy, thì có thể bị cách chức; kẻ có tội nhưng gắng lập công, có thể đem công chuộc tội, và nếu lập công thêm mãi tất sẽ được tấn chức thăng quan.
Nghiệp quả của chúng sanh phần nhiều đều có tánh cách bất định. Nếu chúng ta biết gắng sức dùng tâm lực để chuyển nghiệp lực, thì cảnh Thiên cung, Phật quốc nào phải không nẻo tiến lên. “Bụi hồng có lối về hương quốc. Cửa tội không tâm mở dạ đài”, chính là ý nầy vậy.
Quả báo của chúng sinh: 6.Cộng báo
Cộng báo là quả báo chung. Như thuở Ðức Thế Tôn còn ở đời, ba mươi hai người con của bà Tỳ Xá Ly đều bị vua Ba Tư Nặc nghi lầm mà giết. Xét theo hiện thời thì dường như đó là hàm oan. Song thật ra trong tiền kiếp vua Ba Tư Nặc là con trâu, ba mươi hai người kia đều là kẻ trộm. Trong khi con trâu biết mình sắp bị giết, quỳ xuống rơi nước mắt tỏ ý van xin, nhưng ba mươi hai kẻ trộm quyết tâm sát hại để ăn thịt.
Lúc ấy lại có một bà lão tán thành giúp cho phương tiện nấu nướng. Bà lão ấy chính là tiền thân của cận sự nữ Tỳ Xá Ly. Bà Tỳ Xá Ly và ba mươi hai người con vì đồng gây cộng nghiệp, nên ba mươi hai đứa con bị giết; còn bà mẹ bởi kiếp trước tùy hỷ việc ấy, nên hiện tại cũng vương nỗi buồn lây. Ðiều nầy do Đức Phật thuật lại tiền nhân, nên mối oan kết đôi bên mới được giải thích.
Lại như trong một cuộc chiến tranh, có nhiều người tuy không ra trận tuyến, nhưng cũng bị bom đạn, sự kinh khủng, cảnh nghèo đói, hoặc nỗi buồn khổ về tử biệt sanh ly. Ðó đều là ảnh hưởng nặng nhẹ thuộc cộng báo. Do việc tự mình giết, bảo người giết, hoặc tùy hỷ sự giết của nghiệp sát sanh từ nhiều kiếp về trước.
Quả báo của chúng sinh: 7.Biệt báo
Ðây cũng gọi Bất cộng báo, là quả báo riêng của mỗi cá loại trong loài người hay loài vật. Chẳng hạn như đồng là chim, nhưng có loại chim quý đẹp như bạch hạt, anh võ, trĩ, thanh tước, phượng hoàng. Có loại chim thường như quốc, cò, sẻ, én. Có loại xấu như chim heo, chim ụt.
Lại cũng đồng là loài người, mà có kẻ xấu, người đẹp, kẻ giàu sang, người nghèo khổ, kẻ ngu tối, người thông minh. Hoặc như trong cảnh khói lửa tang tóc lan tràn, có người vẫn sống đoàn tụ an vui, hầu như không biết chiến tranh là gì cả. Ðó là những trường hợp thuộc về Biệt báo.
Quả báo của chúng sinh: 8.Cận tử báo
Cận tử báo là quả báo lúc sắp chết. Con người khi già yếu sắp chết, những nghiệp thiện ác từ kiếp nầy hoặc kiếp trước dồn lại, ảnh hưởng mạnh mẽ hơn lúc bình thường. Nếu là nghiệp thiện thì khiến cho người ấy vui vẻ hòa nhã hiền lương, mắt tai không lờ lãng, khi lâm chung xả báo an lành. Như thuộc về nghiệp ác, thì kẻ đó trở nên nóng nảy, ưa buồn giận khó khăn, tâm trí lờ lẫn, lúc sắp chết đau yếu mê man. Trong đời kẻ tu thiện thì ít, làm ác lại nhiều, nên đa số người đến lúc lớn tuổi thường đổi tánh; những vị không hiểu lý nầy cho là “già hay sanh tật”.