Danh hiệu: Guest
  Nhóm: Guests
 Gia nhập: 21-05-2014(UTC) Bài viết: 1,188
  Được cảm ơn: 144 lần trong 97 bài viết
  
 
     | 
    
        
            
	      
                31. NGOÀI PHÁP NÀY RA CÒN PHÁP GÌ BÍ MẬT NỮA KHÔNG?     Kinh  Pháp Bảo Đàn chép: Khi Huệ Minh đuổi kịp Lục Tổ … Lục Tổ bảo: “Nếu ông  vì pháp mà đến thì hãy ngừng dứt các duyên chớ móng sanh một niệm, giây  lát tôi nói cho nghe”. Giây lâu Lục Tổ bảo: Chính ngay khi chẳng nghĩ  thiện nghĩ ác, vậy hồi ấy cái gì là bổn lai diện mục của thượng tọa? Huệ  Minh nhờ đó mà khai ngộ, rồi cũng lại bỗng dưng khuất lấp trở lại nên  lại hỏi: “Ngũ Tổ còn có truyền pháp gì bí mật nữa không?”     Lục  Tổ đáp: Tôi đã nói cho ông nghe rồi, có gì là bí mật? Nếu ông chịu soi  trở vào ông thì bí mật thuộc về phía ông chớ đâu phải phía tôi. Đấy!  Chính chỗ ấy mới là bí mật.     Trong thiền học có câu: Nếu ai còn  theo cửa nẻo mà vào là không phải con cái của nhà này. Kinh có nói:  “Phật phát tức bất định pháp! Có nghĩa là phát Phật biến hóa vô cùng  không có ngưng trệ, tùy chỗ kẹt mà gỡ, tùy cơ duyên mà lập pháp. Cho nên  pháp vô niệm viên thông là pháp ứng cơ đối với hiện tại, cho tất cả  những người nào thuộc căn cơ không thể không theo cửa nẻo, không thể  không có hạ thủ công phu. Âu cũng là việc bất đắc dĩ mà thôi!. 
  32. SO SÁNH PHÁP TĨNH TỌA CỦA ÔNG VIẾT KHI XƯA VỚI PHÁP VÔ NIỆM VIÊN THÔNG NGÀY NAY KHÁC NHAU THẾ NÀO?     Phương  pháp tĩnh tọa khi xưa là để ứng cơ với số người không tu được vì bịnh  tật chướng ngại. Cho nên cách lập pháp có nghìêng về chú trọng nâng đỡ  cho xác thân để thân dễ chuyển hóa. Còn pháp vô niệm viên thông này thì  chú trọng đến căn cơ vì bị kẹt với khối vọng niệm muôn đời mà xác thân  bị hệ lụy, không thể tu tập theo pháp trên được. 
  Làm cho hành  giả đạt đến tách rời vọng tâm với thân, tiến về tâm thể vô niệm rôi thân  cũng được khỏi hệ lụy mà giải thoát. Nhưng nếu nhắm  vào cứu cánh giải  thoát mà nói thì cả hai đều cũng chỉ là phương tiện. Nhưng phương pháp  tĩnh tọa cũng chỉ có một số người làm được, còn pháp vô niệm viên thông  này theo tôi có lẽ ai cũng thực hành được để đạt đến kết quả. Nên mỗi  bên đều có giá trị đặc biệt riêng.     Nếu nhìn bên ngoài mà nói  thì thấy phương pháp tĩnh tọa hình như không chú trọng mấy về tâm lý kỹ  thuật, vì không mở mang hai điểm thân giác và nghi tình. Nhưng thực ra  trong đó hàm súc nhiều ẩn ý để cho hành giả phải tự phát minh lấy. Vì  sao thế? Vì có hai điểm khác hơn pháp vô niệm viên thông.      Một  là lấy việc điều khiển, theo dõi hơi thở làm tập trung, hai là lấy trụ  tâm dưới rún để thay thế cho nghi tình. Hai đặc điểm này nương tựa lẫn  nhau làm thành tác dụng nhiếp muôn niệm về một niệm, biến một niệm thành  vô niệm. Nếu hành giả điều động được hơi thở đến mức tế nhị, và tinh  thần theo dõi thực hành đúng pháp, thì đến đây bất thần bỗng rơi tõm vào  cảnh giới tâm thể vô niệm. 
  Nhưng nếu người thiếu ý thức sẽ có  nhiều chỗ sơ hở. Vi khi tinh thần đã đến mức thật bén nhạy, thì cả phía  nghịch lẫn phía thuận đều có thể bén nhạy. Đến đay nếu hành giả không đủ  sáng suốt để tự điều động lấy mình, thì sẽ gặp ngõ cụt. Đó là chỗ  phương pháp tĩnh tọa khác với vô niệm viên thông vậy. 
  33. GIẢ SỬ CÓ NGƯỜI NGỘ ĐƯỢC BỔN TÁNH RỒI MÀ TRONG KHI VA CHẠM VỚI  SỰ VIỆC VẪN CÒN RẤT KHÓ ĐIỀU ĐỘNG ĐƯỢC MÌNH. THÍ DỤ NHƯ VA CHẠM VỚI SẮC  TÌNH, HOẶC CẢNH TRÁI CHƯỚNG, NHƯ THẾ CÓ THỂ DÙNG PHÁP NÀY ĐỂ ĐIỀU CHỈNH  ĐƯỢC KHÔNG?     Tất cả cuộc sống đau khổ bệnh tật làm mất hẳn  sức tự tại của con người, không đâu không bởi khối vọng tâm muôn thuở  nó điều động. Tâm vọng là tâm đắm chấp. Nên dù người đã đốn ngộ bổn tánh  mà chưa điều động nổi được mình, tức là chưa phải triệt ngộ. Vì thế nên  người này ngoài việc cần có công phu hạ thủ ra, còn phải thường trực  giác ngộ sâu về thân giác để vọng tâm với xác thân không còn sức cấu kết  chặt chẽ nữa, thì khi va chạm mới không còn nặng nề khó điều động. 
  34. HIỆN NAY ĐANG CÓ KHÔNG BIẾT BAO CHỦ THUYẾT NÀO XUẤT HỒN, NÀO  VÔ VI, NÀO LUYỆN ĐAN, NÀO BÙA CHÚ, NÀO KHAI THÔNG NHÂM ĐỐC, NÀO HIỆP  KHÍ, NÀO CƠ BÚT, NÀO SẤM GIẢNG, NÀO DƯỠNG SINH, NÀO DUY VẬT, NÀO DUY TÂM  … V.V… LÀM CHO QUẦN CHÚNG KHÔNG CÒN BIẾT ĐÂU LÀ PHẢI TRÁI, LÀ CHÁNH TÀ.  NAY MUỐN CỨU VÃN TÌNH THẾ, LÔI CUỐN CHÚNG SANH TRỞ VỀ ĐƯỜNG CHÁNH LÀM  SAO CÓ THỂ LÀM ĐƯỢC?     Bổn tánh của chúng sanh vốn không sư  không thiếu, đầy đủ cả vạn pháp kể cả pháp thuận và pháp nghịch đều có  giá trị và tác dụng của nó. Cho nên nói tất cả pháp đều là phát Phật,  không độ thuận thì độ nghịch, không có pháp chúng sinh thì phát Phật hết  thành vấn đề. Không có pháp Phật thì pháp chúng sinh cũng không lấy đâu  để hiện thế độ nghịch. Vạn pháp đã vốn thị hiện, dòng đời đang lúc đổ  dốc, thế mê của chúng sinh nếu không có pháp phản tá, bỗng dưng muốn  theo hạnh thuận mà kéo lại theo thế ngược dòng, chắc chắn sẽ hoài công  vô ích! Sao bằng cứ để tùy sở thích tha hồ mà đổ dốc, kiến bò miệng chén  có mất đi đâu. 
  Việc chúng sinh, chúng sinh cứ làm, việc của  Phật, Phật cứ nói! Đến lúc đã thèm theo thế chúng sanh rồi trở về với  Phật. Cho nên hai pháp vốn nương nhau mà tồn tại, thị hiện để độ rỗi  chúng sanh, tuy thấy trái ngược nhau nhưng kỳ thực là giúp nhau. Vì thế  nên pháp Phật vốn thường hằng và liên tục không hề gián đoạn. Nếu thế  gian này tất cả đều như ý, không có chướng ngại, vị tất là hay! Nên nếu  thiếu pháp chúng sinh thì pháp Phật không có giá trị. 
  Pháp chúng  sinh càng ngặt nghèo thì pháp Phật càng mầu nhiệm. Người ta nói: “Đạo  cao một thước, ma cao một trượng”, vậy tại sao không thể “Ma cao một  thước, đạo cao một trượng”. Cũng như nói “Thầy hay gặp quẻ mắc”. Vậy tại  sao không nói: “Không có quẻ mắc khó có thầy hay”. Cho nên hai pháp  phải nương tựa lẫn nhau mà hiển dụng.     Người ta đều than vãn  đời mạt pháp pháp tà thuyết bạo hành, nhưng riêng tôi, tôi nói: “Tâm  chúng sinh đang hồi nguy ngập nên phát Phật siêu tuyệt không thể lường.  Chỉ có người căn cơ nhỏ hẹp mới băn khoăn than vãn”. 
  35. PHÁP VÔ NIỆM VIÊN THÔNG CÓ ĐIỀU GÌ CẤM KỴ KHÔNG?     Có,  có cấm kỵ. Vì sao? Từ xưa đến nay trâu tìm về trâu, ngựa chạy theo  ngựa, bợm nhậu về với rượu, bợm hút về với á phiện, kẻ muốn giải thoát  phải về với pháp giải thoát. Nếu thiếu hiểu biết, thiếu lòng thành, hay  dùng ý riêng ghép bừa làm bậy thì sẽ gặp thất bại sa đọa. Đủ hiểu biết,  đủ lòng thành, có chí xuất trần, thực hành chính xác thì bảo đảm hoàn  toàn thành công. Ta cứ để tha hồ cho thiên nhiên gạn lọc. Nên chính chỗ  hữu ý cầu toàn mới đích là điều cấm kỵ. 
  36. CÓ TRƯỜNG HỢP KHÔNG PHÁT ĐỘNG MỐI NGHI TÌNH THÌ SAO?     Vì   không biết rõ vọng tâm mắc liền với xác thân nguy hiểm như thế nào, nên  vấn đề thân giác không ảnh hưởng sâu vào tâm não. Do đó nghi tình khó  phát khởi, nếu có nghiên cứu kỹ, biết rõ thì không còn khó khăn nữa. 
  37. ĐỐI VỚI KHỐI VỌNG TÂM MUÔN THUỞ, NGOÀI CÁCH ÁP DỤNG PHÉP VÔ  NIỆM VIÊN THÔNG ĐỂ HẠ THỦ CÔNG PHU RA, CÒN CÓ PHÁP NÀO HAY HƠN NỮA  KHÔNG?     Thật ra dùng pháp vô niệm viên thông để hạ thủ công  phu vẫn chỉ là pháp thứ hai, tại sao? Sở dĩ có ra khối vọng tâm muôn  thuở là tại cái thấy mê lầm buổi đầu của chúng sanh chỉ lục đục quanh  quẩn theo lợi hại bổn thân, lấy cái Tôi làm trụ cột nên càng ngày càng  bẩn chật khó khăn, mất hẳn tầm mắt thấy xa nhìn rộng, làm cho khối vọng  tâm càng thêm sức mạnh. 
  Nếu ai có đủ tầm mắt thấy xa nhìn rộng  đúng sự thật, thì khối vọng tâm không còn hiệu lực nữa. Bởi vậy Ngũ Tổ  nói với các đồ đệ rằng: “Các ngươi suốt ngày chỉ lo cúng bái làm phước.  Đến giờ phút chót, bổn tánh nếu mê thì phước nào cứu được”. Hay như có  người hỏi Bồ Đề Đạt Ma: “Đồ tể còn nghiệp sát sanh, cư sĩ còn vợ con dâm  dục thì làm sao thành Phật được?”. Đáp: “Đây không bàn đến vợ con dâm  dục hay đồ tể sát sanh, mà chỉ nhắm vào thấy tánh. Một khi  thấy được bổn tánh ròi, nghiệp dâm nghiệp sát tự rỗng lặng”. Cũng vì  thế mà Lục Tổ Huệ Năng đến với Ngũ Tổ một cách hết sức tự nhiên với một  bài kệ họa vận với bài kệ của Thần Tú: 
   Bồ Đề vốn không phải cội   Gương sáng cũng không phải đài   Bổn lai không một vật   Lấy gì bám trần ai    Thế là được trúng tuyển!     Ý  nghĩa này đã nói qua ở câu chuyện con quạ ở trên chiếc thuyền ra biển,  ai có đọc kỹ thì rõ. Bởi vậy nếu có một cách nhìn thật sâu rộng nhẹ  nhàng thì tự nhiên vọng tâm không còn thành vấn đề nữa. Chỉ vì không có  được cách nhìn như thế, nên bất đắc dĩ phải dùng pháp thứ hai. - Có ai ngờ, hồi Mậu Thân có một cậu trai con một của một bà lão bị  tử nạn, khi qua cơn khói lửa, có nhiều người đến thăm hỏi chia buồn, bà  có nói một câu: “Nếu không ai chết chắc tôi sẽ chết theo con tôi, nhưng  khi thấy người ta chết nhiều quá bỗng dưng vấn đề con tôi chết hết thành  vấn đề trong tâm tôi nữa!” Ôi! Nếu không có điều kiện thấy suốt nhìn  khắp, mà cũng không thực hành được pháp thứ hai thì chỉ còn chờ pháp độ  nghịch theo kiều bà lão nói trên mà thôi vậy!
  - Có ai ngờ một vi hòa thượng rất tốt, chỉ vì nuôi nhiều đệ tử nữ,  cộng thêm cách ăn nhiều dầu, thích uống nước đá lạnh theo bữa ăn mà trở  nên bịnh áp huyết lên cao không trị được. 
  - Có ai ngờ chỉ vì một bức hình thiếu nữ lõa thể quảng cáo trước rạp hát, mà một số thanh niên tạm thời huyết áp vọt lên. 
  -  Có ai ngờ một vi tu sĩ xuất gia từ bé cho đến tuổi già mà không trị  được chứng mộng tinh, đến nỗi phải đoạn âm và tuyệt thực để cho vãng  sanh về nước cực lạc cho dễ tu. 
  - Có ai ngờ một ni trưởng xuất gia từ thuở bé, tu đến ngoài 50 tuổi mà phải mang lấy bịnh ung thư tử cung rồi chết. 
  -  Có ai ngờ vị hòa thượng tánh tình rất tốt, xuất gia từ nhỏ thực hành  bao nhiêu hạnh khó như tụng một chữ lạy một lạy, chích lấy máu viết  kinh, ngồi hoài không nằm, ráng thức không ngủ … thế mà phải kẹt một bào  thai con rơi đến phải chuyển sang xứ khác. 
  - Có ai ngờ chỉ vi một ly nước đá lạnh mà biến hóa một vị thiền sư thành một khối mỡ cười nói không phân minh. 
  -  Có ai ngờ cả hệ thống thiền tông nước Nhật chỉ vì không biết chứng ngủ  gục nguyên do từ đâu mà phải chế ra cái ghế ngồi thiền. 
  - Có ai  ngờ từ củ khoai lang sang chứng dư nước chua bao tử đến một tâm lý lừng  khừng không quyết định, trệ theo tình cảm, vốn có một hệ thống tương  quan chặt chẽ. 
  - Có ai ngờ từ ly nước đá lạnh với chứng có sạn trong thận vẫn có một hệ thống tiến hóa của nó.     Thế  mới biết: Trong thế kỷ địa cầu đang hồi xuống dốc (kiếp giảm), khoa học  kỹ thuật tiến đến năm châu họp chợ, thì dù con  người có muốn tín  ngưỡng hay đi theo một đường lối nào, đó là quyền của con người. Nhưng  nếu lìa tay thước hướng nội của Y đạo mà đi tìm sự giải thoát, thì quyết  định càng cầu toàn càng bị tổn thương, không thể không gặp hên xui may  rủi.     Hết thảy chúng sinh sở dĩ mải mê không giải thoát được là  tại không biết rõ toàn bộ của mê là gì. Nay đã được trình bày nói toạc  ra một cách rõ ràng minh bạch, tác giả hy vọng sẽ có người đọc một cách  say xưa, lý thú. Khi được thấy suốt rồi lập tức liền siêu, chớ không đến  nỗi cần cù phí sức, như thế chẳng sướng hơn sao?!  Hết Phần 4.   Vừa viết xong, định dừng bút, lại có khách hỏi:  Trường hợp người khi ngồi lại, trong lòng chẳng thấy có bàn soạn thì  thào, nhưng mỗi khi xúc cảnh lâm tình, hoặc với khác phái, hoặc những  biến cố đột ngột, thường không khỏi biển lòng sóng dậy. Vậy thì làm sao  có thể hoàn toàn chủ động vấn đề? Vì muốn có chủ nên mới có khách. 
  Nếu  trong lòng ta không có vấn đề khác phái, thì khác phái bên ngoài phỏng  có linh thiêng nữa không? Mọi biến cố đột ngột cũng không ngoài nghĩa lý  ấy. Không những thể thôi, cho đến tửu sắc tài khí cũng không thể khác.  Nếu qủa thiệt biết ghiền là cái gì, á phiện là cái gì thì tự nhiên á  phiện sẽ rớt ra. Cho nên điều quan hệ độc đáo là có thấu suốt vấn đề hay  không, còn áp dụng cách này hay cách khác, pháp nọ hay pháp kia chẳng  qua cũng chỉ là pháp thứ hai.     Bên bến đò Rạch Miễu có một  người ngồi bên vệ đường với một ván cờ, một cọc tiền để khiêu khích  khách qua lại. Đã biết bao người qua đường đến đây trút hết ruột ngựa.  Có một ông già tướng trông thật cùi đài đi đến, thấy thế liền móc túi  lấy tiền đặt ván. Chủ nhường khách đi trước, khách mới đặt tay xuống con  cờ, chủ lập tức đỡ tay và móc túi lấy 5 đồng tạ khách và xin lỗi ông ta  để được làm ăn.     Đối phó với tất cả những biến cố của vọng tâm một cách có kỹ thuật cũng tương tự như vậy.     Nếu  ai có đọc suốt tận từ lúc đầu, và vấn đề được thông qua 1 cách chính  chắn thì lập tức liền siêu, chớ không đến nỗi phải  hao công phí sức.     Nhưng  giả sử không được như thế mà trong tâm còn được thường xuyên thấm nhuần  công cụ thân giác và nghi tình thì sóng lòng muôn mặt cũng vẫn hóa giải  được nhẹ nhàng. Nếu không như thế dù có nói bao nhiêu nữa cũng chẳng  qua vẽ rắn thêm chân mà thôi. 
 Sửa bởi quản trị viên 10/03/2017 lúc 10:58:22(UTC)
 | Lý do: Chưa rõ  
            
  
         
     |