[SIZE="3"][COLOR="darkred"]
Hỏi: Tại sao không được lễ Phật, Bồ-Tát?Đáp: Thiên ma Ba-Tuần. A-tu-la cũng hiện thần thông làm được tướng Bồ Tát và nhiều cách biến hóa. Đó là ngoại đạo chớ không phải Phật. Phật là tự tâm, đừng lầm lễ lạy. Chữ Phật là tiếng Ấn Độ, theo xứ ta gọi là tánh giác. Giác nghĩa là linh giác, ứng cơ tiếp vật, nhướng mày, liếc mắt, động tay máy chân đều là tánh linh giác của mình. Tánh tức là tâm. Tâm tức là Phật. Phật tức là Đạo. Đạo tức là Thiền.
Nội một chữ Thiền, phàm thánh cũng khó luờng được. Nếu chẳng thấy tánh là không phải Thiền, dẫu cho giảng được thiên kinh vạn luận, nếu chẳng thấy tánh cũng chỉ là phàm phu. Đạo cả sâu mầu không thể dùng lời mà tỏ được hết. Vậy kinh điển căn cứ nơi đâu mà có thể đến được?
Chỉ thấy bổn tánh, dầu cho không biết một chữ cũng là thấy tánh, tức là thánh thể.
Vốn nó là thanh tịnh, không tạp không nhơ. Có nói năng điều gì đều là thánh nhơn từ tâm mà khởi dụng. Dụng và thể bổn lai là không. Danh ngôn còn chẳng đến được, vậy mười hai bộ kinh bằng cứ nơi đâu mà đến được?
Đạo vốn viên thành, chẳng phải tu chứng. Đạo không phải sắc thinh, vi diệu khó thấy. Chỉ như người uống nước, lạnh ấm tự biết mà thôi, không thể nói cho người khác nghe được. Chỉ có Như Lai biết được, ngoài ra người, trời các loại đều không hay biết. Vì trí phàm phu không đến được nên mới chấp tướng, chẳng rõ tự tâm vốn vắng lặng rỗng rang, nên vọng chấp tướng và tất cả pháp mới đọa ngoại đạo. Nếu biết đều từ tâm sanh thì chẳng nên chấp, chấp là chẳng biết. Nếu thấy bổn tánh thì mười hai bộ kinh chẳng qua chỉ là văn tự rỗng, ngàn kinh muôn luận cốt để tỏ tâm; nếu nói ra liền khế hợp thì kinh giáo dùng được vào đâu? Chí lý hết nói năng, kinh giáo chỉ là từ ngữ, thiệt chẳng phải Đạo. Đạo vốn không nói năng, nói năng là vọng.
Người tu đêm đến có nằm mơ thấy lâu đài, cung điện, voi ngựa hoặc cây cối, rừng ao v.v… chớ nên mống lòng tham đắm, vì hết thảy chảnh ấy đều là chỗ để thác sanh, điều này phải hết sức chú ý. Lại nữa, khi lâm chung chẳng nên chấp tướng thì chướng liền trừ. Nếu tâm nghi phát khởi là bị ma nhiếp.
Pháp thân bổn lai thanh tịnh không thọ lãnh một điều gì, chỉ vì mê muội không hay biết nên vọng thọ báo, vì có tham đắm nên mất tự do, nếu ngộ được bổn tâm thì chẳng đắm nhiễm.
Nếu là từ thánh vào phàm thị hiện bao nhiêu tạp loại tự làm chúng sanh đó là một việc khác. Nên thánh nhơn làm nghịch làm thuận đều được tự tại, tất cả nghiệp chướng không trói buộc được, đối với bực ấy có đại oai đức đã lâu cho nên tất cả nghiệp chướng đều bị chuyển hết, thiên đường, điạ ngục hết thành vấn đề.
Còn phàm phu thần thức mê muội, chớ không phải trong ngoài sáng suốt như Thánh nhơn. Nếu có chỗ nghi thì chớ nên làm, làm là bị trôi lăn theo sanh tử, khi ăn năn đã muộn,. Nghèo cùng khốn khó đều từ vọng tưởng sanh, nếu ai tỏ được tâm nầy thì nên lần lượt khuyên bảo lẫn nhau, chỉ làm mà không trụ không chấp, là vào được tri kiến Như Lai.
Người mới phát tâm thần thức chưa định, nếu khi nằm mơ thấy cảnh lạ hiện đều là tự tâm khởi, quyết định chớ nghi, không phải ngoài tâm có cảnh. Nếu mơ thấy ánh sáng như mặt trời, tức là tập nghiệp còn thừa sắp hết, tánh pháp giới hiện. Đó là điềm sẽ thành Đạo, chỉ tự mình biết chẳng nên nói cho ai nghe. Hoặc khi rong chơi trong vườn vắng lặng, đi đứng nằm ngồi mắt thấy ánh sáng; hoặc trong đêm tối cũng thấy ánh sáng như ban ngày, đừng có lấy làm lạ, đều là tự tâm muốn hiển hiện. Hoặc nằm mơ thấy trăng sao tỏ sáng, đó cũng là điềm các duyên muốn dứt, cũng chớ nên nói cho ai nghe. Còn như nằm mơ thấy đi trong tối tăm u ám, đó cũng là tự tâm phiền não chướng nặng cũng chỉ nên tự biết.
Nếu đã thấy tánh, chẳng cần phải đọc kinh niệm Phật, học rộng hiểu nhiều vô ích, còn làm cho thần thức lại tối thêm. Kính giáo chỉ để nêu tâm, nếu rõ được tâm đâu cần phải xem kinh giáo! Nếu là từ phàm vào thánh phải nên ngừng nghiệp dưỡng thần, tùy phận qua ngày. Nếu là người nhiều sân nhuế làm cho tánh sanh chướng đạo, tự gạt gẫm vô ích.
Thánh nhơn ở trong sanh tử tự tại hiện ẩn ra vào chẳng định, tất cả nghiệp chướng hết thành vấn đề. Hết thảy chúng sanh chỉ cần thấy bổn tánh là tập nghiệp liền dứt, thần thức không bị mê; nhưng phải là “tức thì liền nhận”.
Nếu muốn thật ngộ đạo thì đừng chấp tất cả pháp, ngừng nghiệp dưỡng thần thì dư tập cũng hết, tự nhiên minh bạch không cần dụng công. Ngoại đạo chẳng rõ ý Phật, dụng công rất nhiều mà vẫn trái với ý thánh. Suốt ngày bo bo niệm Phật tụng kinh mà vẫn mê muội bốn tánh, chẳng khỏi luân hồi.
Phật là người rảnh rang, đâu cần chật vật rộng cầu danh lợi. chỉ có người chẳng thấy tánh mới đọc kinh niệm Phật, siêng học, sau thời hành đạo; ngồi hòa chẳng nằm, học rộng nghe nhiều và cho đó là pháp Phật. Chúng sanh như thế đều là người khinh pháp. Phật trước Phật sau chỉ nói thấy tánh, các hành động đều là vô thường.
Nếu chẳng thấy tánh mà vội cho rằng mình đã được đạo Vô thượng Bồ-Đề, đó là hạng tội nhơn lớn. Mười vị đệ tử lớn của Phật, ngài A-nan là người học rộng bực nhất mà với Phật còn không biết, chí học rộng nghe nhiều. Hết thảy Nhị thừa ngoại đạo đều không biết Phật, chỉ biết dếm theo pháp tu chứng, bị đọa vào trong nhân quả, đó là chúng sanh nghiệp báo chẳng khỏi sanh tử trái với ý Phật rất xa, là kẻ khinh Phật đó! Trong kinh có nói: Hạng chúng sanh ấy thuộc Nhứt-xiển-đề chẳng có lòng tin; nếu có lòng tin thì người ấy là một vị Phật.
Nếu chẳng thấy tánh, chớ nên bắt chước chê bai những người lương thiện, tự dối gạt vô ích. Thiện ác rõ ràng, nhân quả phân minh, thiên đường địa ngục chỉ ở trước mắt, người ngu chẳng biết hiện đọa vào địa ngục tối tăm cũng không hay.
Chỉ vì nghiệp nặng nên không thể tin, ví như người mù chẳng tin người ta nói có ánh sáng, dầu có cắt nghĩa thế nào cũng không tin được, vì đã mù lấy đâu mà phân biệt được sáng tối! Người ngu cũng thế. Hiện tiền đã bị đọa vào súc sanh tạp loại, chỗ ở trong nghèo cùng hạ tiện, cầu sống chẳng được, cầu chết cũng chẳng được. Tuy thọ khổ như thế nhưng dẫu có ai hỏi họ cũng tự gọi mình được yên vui. Nên biết tất cả chúng sanh dẫu sanh vào chỗ vui thật cũng không hay biết. Hạng người ác như thế, chỉ vì nghiệp chướng quá nặng nên không thể phát lòng tin, không tự do được. Nếu thấy được tự tâm là Phật chớ không phải ở tướng bên ngoài, thì dẫu bạch y cư sĩ cũng vẫn là Phật. Nếu chẳng thấy tánh dù có đầu tròn vai vuông cũng là ngoai đạo.
Hỏi: Cư sĩ còn vợ con, dâm dục làm sao thành Phật được?Đáp: Chỉ nói thấy tánh; chẳng bàn đến dâm dục. Chỉ vì chẳng thấy tánh. Miễn được thấy tánh thì dâm dục vốn tự rỗng lặng, tự nhiên dứt trừ, không còn tham đắm nữa. Dẫu cho dư tập hãy còn cũng chẳng làm hại được. Vì sao thế? Vì tự tánh vốn nó tự thanh tịnh. Tuy ở trong sắc thân năm uẩn, tánh nó cũng vốn thanh tịnh không ô nhiễm. Pháp thân bổn lai không thọ, không đói, không khát, không lạnh nóng, không bịnh hoạn, không ân ái, không quyến thuộc, không khổ vui tốt xấu, không vắn dài mạnh yếu, vốn không một vật có thể được. chỉ vì cố chấp cái thân này nên mới có các tướng đói khát, lạnh nóng, bịnh chướng v.v… Nếu chẳng chấp là được tự tại. Nếu trong sanh tử mà được tự tại, chuyển trở lại các pháp, đừng để các pháp chuyển, cũng như Thánh nhơn, thì ở đâu lại không yên? Nếu tâm có chỗ nghi, quyết định không thể tự tại, không khỏi sanh tử luân hồi. Nếu thấy tánh thì dẫu bần cùng hạ tiện, đồ tể sát sanh cũng vẫn thành Phật.
Hỏi: Đồ tể làm nghiệp sát sanh làm sao thành Phật được?Đáp: Chỉ nói thấy tánh, chẳng nói tạo nghiệp. Dẫu sao có tạp nghiệp thế nào, nghiệp cũng không thể trói buộc được. Từ lũy kiếp đến giờ, chỉ vì chẳng thấy tánh nên mới có trôi lăn sau đọa vào địa ngục, sanh tử; khi ngộ được bổn tánh sẽ không tạo nghiệp nữa. Nếu chẳng thấy tánh, niệm Phật để khỏi nhân quả cũng không thể được, không luận là sát sanh.
Nếu được thấy tánh, tâm sát liền trừ, nghiệp sau cũng không thể trói buộc được. Cho nên 27 vị tổ ở Tây Trúc chỉ truyền nhau tâm ấn. Nay ta đến cõi nầy cũng chỉ truyền Đốn giáo Đại Thừa chính tâm mình là Phật, chớ chẳng nói đến giữ giới, tinh tiến, khổ hạnh. Nhẫn đến vào nước vào lửa, leo lên gươm đao, ăn một ngày một bữa, ngồi hoài chẳng nằm, hết thảy những cái ấy đều là pháp hữu vi ngoại đạo.
Nếu rõ được cái tánh linh giác chính là tánh Phật, Phật trước Phật sau chỉ nói truyền tâm chớ không có pháp nào khác. Nếu rõ được tâm này dầu phàm phu không biết một chữ cũng vẫn là Phật. Nếu chẳng rõ tự tánh linh giác của mình, dẫu cho đem thân này tán ra tro bụi để tìm Phật rốt cũng chẳng được gì.
Phật cũng gọi là pháp thân, cũng gọi là bổn tâm. Tâm nầy không hình tướng, không nhân quả, không gân cốt. Vốn như hư không, bắt chẳng được; chớ không phải như vật chất, không phải như ngoại đạo nói. Tâm này chỉ trừ Như Lai ra, hết thảy chúng sanh đều mê muội, đều chẳng tỏ ngộ. Nhưng tâm này không phải lìa cái thân vật chất nầy. Nếu thân tứ đại nầy mà lìa tâm là không có sự sống, làm sao có biết! Nhẫn đến nói năng vận động, thấy nghe hay biết đều là cái động dụng của tâm.
Động là tâm động, dụng là tâm dụng. Ngoài động dụng không tâm, ngoài tâm không động dụng. Động chẳng lìa tâm, tâm chẳng lìa động. Lìa động không tâm, lìa tâm không động. Động là tâm dụng, dụng là tâm động. Động tức tâm dụng, dụng tức tâm động. Chẳng động chẳng dụng, dụng và thể vốn không, không vốn không động. Động dụng do tâm tâm vốn không động.
Nên kinh nói: “Động nhưng không chỗ động. Suốt ngày đi đến nhưng chưa từng đi đến, suốt ngày thấy nhưng chưa từng thấy, suốt ngày cười nhưng chưa từng cười, suốt ngày nghe nhưng chưa từng nghe, suốt ngày biết nhưng chưa từng biết, suốt ngày mừng nhưng chưa từng mừng, suốt ngày đi nhưng chưa từng đi, suốt ngày đứng nhưng chưa từng đứng.” Nên kinh nói: “bặt đường nói năng dứt hết nơi chỗ, thấy nghe hay biết vốn tự tròn vắng, nhẫn đến giận mừng, đau ngứa nào khác người gỗ, chỉ vì suy tìm cái đau ngứa không thể được”.
Nên kinh nói “nghiệp ác thì được báo khổ, nghiệp thiện thì được báo vui”; chớ không phải chỉ sân bị đọa địa ngục, mừng được sanh thiên. Nếu rõ được cái tánh mừng giận vốn không, chỉ đừng chấp nghiệp là giải thoát. Nếu chẳng thấy tánh, giảng kinh quyết không bằng cứ.
Nói không sao cho hết, chỉ đại lược tà chánh đôi điều mà thôi.
[Tụng rằng:]
Tâm tâm tâm không thể tìm
Rộng cùng khắp pháp giới,
Hẹp chẳng chứa đầu kim
Ta vốn cầu tâm chẳng cầu Phật,
Biết rõ ba cõi rỗng không vật.
Nếu muốn cầu Phật chỉ cầu tâm
Chỉ tâm nầy, tâm nầy mới là Phật.
***
Ta vốn cầu tâm, tâm tự trì.
Cầu tâm chẳng được, tự tâm hay.
Tánh Phật chẳng từ ngoài tâm được
Tâm sanh là lúc tội sanh rồi.
[Kệ rằng:]
Ta vốn đến cõi nầy,
Truyền pháp cứu mê tình,
Một hoa nở năm cánh
Kết quả tự nhiên thành.
[Luận Huyết Mạch của Tổ Đạt-Ma đến đây là hết]
[/COLOR][/SIZE]