Trước ngày rời Lhasa, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo đã gặp một vị Tổ sư sống ẩn dật trong hốc núi tuyết...
Gặp Tổ sư trong núi lạnhVào một ngày rằm, ông cùng Lạt ma Shamden (là vị Lạt ma được Pháp vương Tây Tạng cử đến ở cạnh ông) ra một bờ suối lớn vùng phụ cận Lhasa. Suối này uốn lượn thông đến các dãy núi cao và xa hút tầm mắt. Đến khúc quẹo vắng vẻ, ông tách ra đi dạo một mình và đột nhiên cảm thấy đường đi quen quen, giống với con đường ông đã thấy trong một giấc mộng trước đó.
Quanh co gần cả buổi sáng, cuối cùng đến một hẻm núi vắng lạnh, bên trong có một người đang chờ ông, đó là vị Tổ sư (chữ của ông dùng) sống ẩn dật lặng lẽ không biết đã bao nhiêu năm ở đây.
Ông đảnh lễ ngài. Ngài lấy một tấm đá có khắc mấy dòng chữ đưa cho ông bảo hãy nhận lấy để hành trì pháp môn của Đức Bồ đề Đạt ma chính lý. Tiếp đó ngài đem yếu lý Tâm kinh Bát nhã ba-la-mật-đa ra truyền: “Ôi nhờ ngài chuyển tư tưởng mở cả trí não của bần đạo, làm cho bần đạo đoạt lý tâm kinh, mới biết đó là đại thần chú của tam thế chư Phật. Đảnh lễ cảm ơn giáo hóa. Ngài cười rồi đứng dậy rờ đầu bần đạo rằng: Nhân duyên trong đạo nhiều kiếp qua rồi, nay gặp nhau cũng còn dìu dẫn. Bông ưu đàm nải búp (đơm nụ) chẳng bao lâu sẽ trổ...”.
Trong khoảng thời gian nhanh chưa đầy một búng ngón tay, ngài vẽ một bông sen trong lòng bàn tay phải của ông, nói: “Kinh (mang) tên bông này (ngươi) có tụng đọc mà chẳng đoạt lý hay sao?” (Kinh Diệu pháp liên hoa - tức Pháp Hoa).
Tháp tròn tại chùa Tây Tạng (Bình Dương) tạo hình theo phong cách mỹ thuật Tây Tạng - Ảnh: Giao Hưởng
Ngài lại “móc một cục đất dưới chân (đất mềm) nắn ra hình một cái chén, đoạn thổi một hơi khô queo. Ngài hỏi cái chi? Bần đạo đáp: Đất...”. Ngài khen: “Đúng lắm... trước nó là đất, bây giờ ra hình là cái chén”. Có ý bảo rằng: Đất có thể tạo nên nhiều thứ đồ dùng hình trạng khác nhau như chén, đĩa, bát, bình hoa... Nhưng cái thể chung nhất của các thứ đồ vật ấy vẫn là đất thôi. Người có con mắt đạo nhìn xuyên qua những hình tướng sai biệt bên ngoài để thấy cái “đồng nhất”, cái “nhất thể”, cái “nguyên sinh” của vạn vật, vốn không hai, không khác. Nếu có cái hai, ba, bốn, năm và nhiều vô lượng nữa thì vẫn chỉ là những “hoa đốm trên không” rốt cuộc sẽ bị hoại diệt như kinh Kim Cương chỉ rõ: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”.
Nghĩa là phàm thứ gì có tướng trạng (như con người, các loài vật, nhà cửa, bàn ghế, cây cối, núi non, rừng rậm, tinh tú, các thiên hà) đều phải theo thời gian hư hoại. Từ nghĩa đó, Tổ nhìn thẳng vào ông chuyển trí để ông “thấu đáo kinh Kim Cương nghĩa lý nhiệm màu” và kêu lên: “Ôi! Tu trong mấy kiếp, đoạt lý một giờ...”.
Trở về nhà, ông không kể lại gì về chuyện mình đã gặp Tổ sư, mãi đến trước ngày rời Lhasa khoảng nửa tháng ông mới hỏi Samdhen: “Này huynh, vậy chớ huynh có biết hướng nam nơi dãy núi từ Bumpari chạy dài theo mé suối lớn có vị đại đức Lạt ma nào ẩn dật tu hành nơi ấy chăng?”. Samdhen đáp: “Khi tôi còn nhỏ trong khoảng 9 năm trời ở tại chùa Dzêsbung tôi đã nghe nói có nhiều vị đại Lạt ma ẩn dật trong hang núi để tu hành cao pháp (pháp tối thượng) nhưng ít ai gặp đặng các ngài... nhưng làm sao thầy biết vậy mà hỏi tôi?”.
Ông đáp: “Nếu tôi không biết thì làm sao hỏi huynh đặng (...) tôi có đến gặp đại lão Lạt ma, người thông tiếng Hindou lắm”. Samdhen nài nỉ hỏi vị đại lão Lạt ma ấy nói gì. Ông bộc bạch thiệt tình: “Có, nhưng tôi không thể nói lại cho huynh hiểu... Vì nghe qua thì hiểu, mà nói lại thật khó lắm!”.
Về lại Việt NamSau hơn 5 tháng ở Lhasa (28-5 đến 29-10-1936), ông từ biệt Pháp vương Tây Tạng và các Lạt ma để lên đường về lại Việt Nam. Chuyến về lượt này đông hơn, vì có thêm 8 mã tử tháp tùng và 36 con ngựa thồ đồ đạc, với lộ trình phải trải qua từ Xhuxul, Bede, Namcachê, Ralum, Yăngsê, Khăngma, Kala, Tunna, Pharijong (trả ngựa), tiếp đến: Gialinkha, Chima, Natăng, Linhđam, Tchongthapa, Arakara, Kalimpong. Trên những chặng đường đó, ông ghé qua nhiều xóm làng tuyết phủ như Dranhđaziga, Yokăng, Samadước, Xhalu, vượt qua đỉnh Kharula, Nađăng, Zêlêla, ghé các quán gió hú hẻo lánh ở Nepal để uống vài ly trà nóng biệt ly...
Đến chân dãy Himalaya, ông theo các tuyến xe lửa đi thấp dần xuống đồng bằng có nắng và đặt chân vào đất Ấn Độ, tới Calcutta, rồi xuống tàu đi Ceylon, hồi tưởng mới ở đỉnh núi tuyết lạnh lẽo, bây giờ tựa như chớp mắt ngủ dậy “sáng ra đã thấy biển mênh mông” quanh mình. Lên bờ, ông ra mắt “giáo chủ tại Đại học đường Pali” và nhận thêm một pháp danh tiếng Pali nữa: Manjusri (Manhgiusshri). Qua chuyến đi, ông ghi nhận tượng ngài Di lặc thờ ở Ấn Độ (và ở Tây Tạng) có khác với tượng Di lặc đang thờ ở Việt Nam (và Trung Quốc)...
Về lại Việt Nam, trong sáu năm từ 1944-1950, Lạt ma Thubten Osall Nguyễn Tấn Tạo (tức thiền sư Nhẫn Tế - Minh Tịnh) đã dịch bộ Lăng Nghiêm tông thông (do Nam Nhạc Tăng Phụng Nghi soạn), sau này được ấn hành bởi Thành hội Phật giáo TP.HCM, năm 1997, gồm hai tập, 1.463 trang (tái bản trọn bộ bởi NXB Tôn Giáo - Hà Nội 2002).
Giao Hưởng (Thanh Niên)